Wednesday, December 2, 2009

Phat trien do thi o London

Bai tu lau roi, quen cho len, hoi thao phat trien do thi o Vien VNhoc va PT, thang 8.2009

Câu chuyện phát triển đô thị – Nhìn từ một khu phố London
Lê Thanh Hải, thanhai@wp.pl

Bên cạnh những thành công, London cũng có những thất bại trong phát triển và các vấn đề cần giải quyết, mà tất cả đều có thể là bài học kinh nghiệm cho phát triển đô thị, đặc biệt là đô thị thủ đô tại Việt Nam. Bài viết này nhằm điểm qua một vài vấn đề trong số đó.

Tổng quan

Luân Đôn là thủ đô Vương quốc Anh (United Kingdom) và là thành phố đông dân nhất của Liên hiệp châu Âu, với trên 7,5 triệu dân
[1] sống trong khu vực Great London (rộng 1.572km2) và tổng cộng khoảng 12-14 triệu người nếu tính cả vùng phụ cận từ các tỉnh lân cận, hàng ngày đi vào làm việc ở khu trung tâm. Thành phố có 5 sân bay mà Heathrow là cảng hàng không có lưu lượng lớn nhất thế giới[2]. Thành phố có nền móng từ thời La Mã cổ đại, 2000 năm trước, trải qua nhiều thời kỳ phát triển[3] mà nổi bật nhất gần đây là giai đoạn vàng son thời Trung Cổ, cách mạng khoa học kỹ thuật thế kỷ 19, và nay là quá trình tiếp tục mở rộng và phát triển hướng đến Olympic 2012. Tạp chí NewYork Magazine đánh giá đây là thủ đô của thế giới trong thế kỷ 21 (theo Tom Teodorczuk, Evenning Standard 21.3.2007).

Phương pháp và trình bày

Với thời gian sống và tham gia các hoạt động của London từ năm 2002, tác giả tìm hiểu khu vực này bằng phương pháp quan sát tham gia (participant observation), trao đổi (conversation) và tìm hiểu (understand) liên chủ quan (inter-subjective), kết hợp với tài liệu nguồn để trình bày câu chuyện phát triển đô thị của thủ đô London từ góc cạnh địa phương (community studies) – phường Roehampton thuộc quận Wandsworth, nơi tác giả cư ngụ liên tục từ năm 2004 đến nay. Đây cũng là lối tiếp cận thường gặp trong các khảo sát nhân học văn hóa và xã hội kết hợp (socio-cultural anthropology).

Cuộc sống của tác giả ở London có thể coi là “bình thường” (ordinary commuter), mỗi ngày đi làm bằng phương tiện giao thông công cộng, mà người Anh hay gọi là “2 busses and 1 train”, tức là đi xe buýt ra bến xe lửa hoặc tàu điện ngầm, vào trung tâm thành phố rồi dùng một xe buýt khác đến chỗ làm việc. Người ta thường tính
[4] thời gian từ lúc ra khỏi cửa nhà đến cổng cơ quan, gọi là door-to-door, với tôi là 35-50’, trong khi có nhiều người chỉ riêng thời gian ngồi trên xe lửa đã là 1h30 đến 2h. London chia thành 6 vùng cơ bản mà nhà tôi là ở vành đai số 3, còn nhiều đồng nghiệp ở tận các tỉnh khác như Kent, Surrey, hay thậm chí thành phố biển như Brighton, cách London khoảng 80km. Chỉ cần có khoảng 2.000USD là có thể mua xe ô-tô, nhưng hầu như không ai dùng để đi làm vì bên cạnh tiền xăng và tắc đường còn phí giao thông ở khu trung tâm 15USD (8 bảng) một ngày và đỗ xe khoảng 4USD (2 bảng) một giờ nếu tìm được chỗ. Nhiều người đi mô-tô và xe đạp, kể cả loại có thể gấp nhỏ đem theo lên xe lửa.

Chỗ ở của tôi thì không thuộc nhóm “bình thường” vì là nhà chung cư, một dạng nhà ở xã hội mà chính quyền xây để cho người nghèo thuê hoặc cấp cho người tị nạn, sau đó bán rẻ cho những ai có khả năng vay tiền ngân hàng (mortgage). Người Anh trung lưu thích ở kiểu nhà phố - tức là mặt tiền hướng ra đường, phía sau có mảnh vườn nhỏ - mặc dù rằng khá nhiều ngôi nhà chia thành nhiều tầng (flat), mỗi tầng là một chủ sở hữu riêng, dù ngăn cách giữa các tầng có thể chỉ là là gác gỗ. Các khu chung cư được xây chủ yếu trong thập niên 1970s-1980s, và thường gắn liền với tiếng xấu về an ninh trật tự. Nhiều ngân hàng từ chối cho vay mua nhà trong chung cư cao quá 6 tầng. Chung cư tôi đang ở cao 10 tầng, nhưng mỗi căn hộ là một kiến trúc nhà hai tầng, nằm trong địa bàn có hàng chục tòa nhà cao, bao quanh là rất nhiều khu dân cư giàu có và rừng công viên.

Tổ chức hành chính

Khoảng 20 tòa chung cư cao tầng với chừng 3.000 cư dân là một trong 5 khu phố – mà cũng là khu vực bầu cử địa phương thuộc phường (ward) Roehampton, trong quận (borough, council) Wandsworth
[5], là một trong 33 đơn vị hành chính của thủ đô London.. Phường của tôi có 12.000 dân cư, được cử ra 3 nghị viên (councillor) đại diện mình trong tổng số 60 nghị viên trong hội đồng quận, mà một người sẽ được cử ra làm chủ tịch, điều hành và đại diện mọi hoạt động của địa phương. Mỗi hộ gia đình sống trên địa bàn quận sẽ phải đóng một khoản thuế gọi là Council Tax mà văn phòng quận sẽ trực tiếp ban hành và sử dụng để duy trì hệ thống giao thông, vệ sinh và các công trình công cộng như thư viện, nhà trẻ và y tế cộng đồng. Khoản tiền thuế đó sẽ được trích một phần để nuôi hoạt động của chính quyền thủ đô London, mà mỗi tháng mỗi căn hộ còn phải góp thêm 20 bảng cho quĩ xây dựng Olympic 2012.

Người nước ngoài sống trên địa bàn quận trên 3 năm sẽ có quyền bỏ phiếu chọn nghị viên, là người sống hoặc làm việc trong khu ít nhất là 6 tháng. Ứng viên tự do cần 10 người ký giấy giới thiệu là chính thức được in tên trên danh sách tranh cử. Hàng tuần nghị viên có giờ trực ở thư viện để người dân có thể gặp mặt. Nghị sĩ quốc hội cũng như vậy, với lịch hàng tháng, kể cả những người đã kiêm thêm nhiệm vụ trong chính phủ như thủ tướng và bộ trưởng. Ranh giới giữa các khu vực bầu cử Council, Great London và quốc hội không đồng nhất cho nên các nhóm chính trị vùng thường phải kết nối với nhau, ví dụ quận Wandsworth có 3 khu vực bỏ phiếu cho 3 nghị sĩ quốc hội khác nhau, liên kết với các vùng lân cận phía đông, còn đại diện ở London thì lại kết nối với Merton, văn phòng đảng Bảo thủ kết hợp với quận Wimbledon
[6]. Các tổ chức xã hội, văn hóa, kinh tế và giáo dục cũng có những liên kết riêng, sẽ được trình bày trong các phần tiếp theo, lồng trong những hoạt động cụ thể, ví dụ như bắt đầu từ hoạt động bảo tồn rừng.

Bảo tồn rừng công viên

Một trong số những lý do khiến nhiều người chọn về sống ở khu Roehampton là lượng cây xanh bao quanh. Nhìn trên bản đồ bạn sẽ thấy mật độ thiên nhiên trong khu vực là rất lớn: cánh phía Wimbledon&Putney Commons rộng chừng 460 héc-ta với nhiều hồ nước, sân golf và giải tennis nổi tiếng, cánh bên Richmond Park gần 1.000 héc-ta với hàng trăm con hưu và nai từ thời vua Charles đệ nhất (thế kỷ 17) dành làm khu săn bắn, cùng khuôn viên đại học Roehampton và nhiều sân cỏ chơi thể thao của quận, thành phố và các khu nghỉ dưỡng, bệnh viện và ngân hàng Anh quốc. Cư dân từ các phường và quận tiếp giáp với khu rừng nai như Roehampton, Putney, Sheen, Richmond, Kingston lập hội bảo tồn thiên nhiên để cùng nhau chăm sóc di sản văn hóa và môi trường sống. Hội những người bạn
[7] của Richmond Park chỉ đơn giản là tổ chức gặp mặt và cùng nhau đi dạo trong rừng theo định kỳ, bên cạnh các buổi tìm hiểu về lịch sử, cây cối và động vật hoang dã. Họ có thể đòi quyền lợi kinh tế như vé rẻ để sử dụng sân golf, thuê ngựa, vận động chính quyền địa phương về việc không thu tiền parking, mở thêm các lối đi bộ để tiện vào rừng, liên kết với các hội viết sử địa phương[8] trong các vùng lân cận để mở rộng giáo dục, hay chỉ đơn giản là giúp các thế hệ có cơ hội gặp nhau, giúp người già đỡ bị cô đơn và cô lập trong xã hội, còn thanh niên biết quí trọng môi trường sống và các di sản lịch sử. Mối quan hệ liên hội đó còn nối sang nhiều tỉnh khác của nước Anh hoặc thậm chí tận Na-uy, vì trong công viên có loài chim Skylark, nằm trong danh sách bảo vệ của thế giới và được nhiều người dân châu Âu quan tâm. Cũng cần chú ý là những hoạt động vừa kể dù có liên kết nhưng độc lập với công việc của ban quản lý công viên[9], vốn là tài sản của hoàng gia Anh. Cánh rừng Wimbledon&Putney Commons cũng có các hội riêng như Người quan sát[10], Cư dân[11], và Di sản[12]. Các tổ chức này chính là nơi lưu trữ, kết hợp và phát triển nguồn tri thức để tham gia quá trình xây dựng, thực hiện và giám sát chính sách của chính quyền địa phương lẫn trung ương.

Khu phố văn hóa

Nếu những tổ chức bảo tồn rừng và tìm hiểu lịch sử như vừa kể có thể được coi là dành cho những người nhàn rỗi có nơi tụ họp, thì trong khu dân cư còn nhiều hội khác đem lại lợi ích rất thiết thực, cùng hướng đến mục tiêu phát triển cộng đồng. Trong quận Wandsworth có khá nhiều khu đất cho người làm vườn thuê với giá 20 bảng (40USD) một năm, tự trồng các loại rau quả để ăn, đem cho, hoặc thậm chí đem bán. Phường Roehampton có một hội những người làm vườn
[13], đã hoạt động được trên dưới 100 năm, mà nay lại mới có thêm một hội làm vườn theo hướng tận dụng môi trường EcoGarden, liên kết những gia đình trồng rau gia vị và cả các loại cây leo trên ban công. Hội còn có hai nhà kính và một khu vườn chung. Trong những bữa tiệc trà truyền thống, người ta chia sẻ kinh nghiệm cho dưa chuột leo lên giàn gỗ bên cửa sổ, vừa làm cảnh, vừa có quả để ăn. Một người khác chỉ kinh nghiệm đấu tranh với quận để giữ quyền làm vườn trong vùng đất bị bỏ sót trong qui hoạch làm bãi cỏ và trồng cây công cộng. Hàng quí, các nhóm hội khác nhau tổ chức họp mặt trong chương trình gọi là Roehampton Partnership, có đủ đại diện từ ủy ban quận, hiệp hội các doanh nghiệp trong phường, các nhà trẻ, trường học và trường đại học Roehampton, y tế, cảnh sát và linh mục từ nhà thờ trong khu. Người dân ai có thời giờ đều có thể đến nghe và phát biểu, không khí cởi mở, địa điểm đẹp, cà phê nước ngọt miễn phí. Cuộc họp quí hai vừa rồi được tổ chức trong tòa nhà ban giám hiệu trường đại học Roehampton, nhìn ra sân bóng và thung lũng rừng Richmond Park đang vào hè. Cuộc họp sau sẽ tổ chức ở quần thể sân tennis và hệ thống thể thao giải trí của Bank of England, cũng là một đơn vị có mặt trên địa bàn phường và cùng tham gia các hoạt động của Partnership. Những cuộc họp như vậy rất phù hợp với người trưởng thành, có quan tâm và muốn đóng góp cho sự phồn vinh và phát triển của phường. Đó cũng là cầu nối cho những người hoạt động vì các vấn đề nhỏ hơn ở mức một khu phố, tổ dân phố hay một tòa chung cư. Khu nhà tôi ở có ai đó nuôi chó, đái trong thang máy không chịu dọn. Thế là một cư dân đi gõ cửa từng nhà thu thập chữ ký để yêu cầu chính quyền có biện pháp nặng tay. Một khu nhà có nhiều an-ten điện thoại di động, người dân cũng đi vận động phản đối. Nhưng có những vấn đề chỉ cần liên hệ trực tiếp. Ví dụ chuyện cửa ra vào hay bị trẻ con đập kính, tôi hỏi cụ thể với nghị viên, người này đặt câu hỏi với người phụ trách khu nhà tôi đang sống, và khi có câu trả lời thì chuyển lại cho tôi, hỏi xem như vậy đã thỏa đáng chưa. Rất nhiều cán bộ quản lý của quận khi nhận nhiệm vụ mới trong khu đều gửi thư đến từng hộ gia đình, tự giới thiệu và để lại số điện thoại và email liên lạc. Mỗi công việc, ví dụ như sửa chữa chung trong khu, đều có mẫu thư nhận xét, phản hồi về công việc vừa rồi, gửi đến từng nhà xin góp ý, phong bì có sẵn tem. Người dân cũng có thể tham gia ban quản trị một số cơ sở y tế và giáo dục như bệnh viện Kingston[14], các trường học trong quận[15], trực tiếp tham gia điều hành về mặt chính sách và thanh tra hoạt động của các đơn vị đó.

Khi cần thì các hoạt động dân sự như vừa kể trên có thể liên kết với hệ thống chính trị địa phương hoặc trung ương. Những người quan tâm đến di tích lịch sử là một tòa lâu đài từ thế kỷ 17 bị bỏ hoang ở Roehamton vận động chính trị gia Stuart King
[16] - đang là ứng viên nghị sĩ quốc hội của đảng Lao Động - để tìm nguồn phục chế và sử dụng cho lợi ích cộng đồng. Phân đảng Bảo thủ - đảng thắng hết cả ba ghế nghị viên của phường - thì thường gặp nhau ở Telegraph Inn, một quán rượu rất đẹp cũng là di sản văn hóa thời Tiền Công nghiệp, nằm giữa khu rừng nhỏ Putney Heath. Đại biểu quốc hội Justine Greening[17] cũng tích cực tham gia các buổi tiệc đứng và thi đấu cricket để mở rộng quan hệ trong khu vực. Với một mạng lưới các mối quan hệ dân sự, xã hội và chính trị như vậy, những dự án từ mức phường như xây dựng khách sạn, mức quận như xây dựng khu trung tâm thương mại mới, mức thành phố và trung ương như mở rộng sân bay Heathrow đều được “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”. Hình thức dân chủ cơ sở này không chỉ đơn giản là một mô hình chính trị mà như vừa mô tả, còn là kênh liên lạc để giảm thiểu mâu thuẫn lợi ích kinh tế, chính trị và quyền lực ngay từ giai đoạn sơ khai, hoặc sẽ là phương tiện giải quyết xung đột quyền lực nếu có. Đây cũng là nét nổi bật của bản sắc văn hóa truyền thống Anh.

Giáo dục

Chính quyền địa phương cấp ngân sách cho rất nhiều hoạt động giáo dục khác nhau. Trước hết là mạng lưới thư viện. Tại một thư viện nhỏ như phường tôi ở đã có đủ các đầu sách cho sinh viên năm thứ nhất của các ngành xã hội, triết học, sử địa, sinh-lý-hóa, pháp lý, tin học, kỹ thuật, ngữ văn, kinh tế… bên cạnh tiểu thuyết, sách du lịch và các loại tạp chí, đĩa nhạc, phim video. Thư viện khu Putney có thêm các đầu sách dành cho bậc nghiên cứu sinh tiến sĩ, ví dụ như sách hướng dẫn nghiên cứu và viết luận văn, hay một kho sách nhạc cổ điển mà thư viện một vài trường nhạc ở Việt Nam có thể không nhiều và đa dạng bằng. Các thư viện ở London liên kết với nhau, cho nên hầu như bạn có thể đọc được bất kỳ quyển sách nào cần tìm. Khi truy cập, mạng điện tử sẽ chỉ cho bạn biết sách đó đang nằm ở đâu, kệ sách số bao nhiêu, đi đến thư viện đó bằng cách nào. Bạn cũng có thể điền form yêu cầu gửi sách đó về thư viện khu mình để mượn về nhà đọc thêm, kể cả các sách đang lưu trữ trong thư viện quốc gia.

Các thư viện hầu như đều có khu riêng dành cho trẻ em. Con nít dưới một tuổi hàng tuần có các lớp nghe cô giáo hát ru, một phần để các bà mẹ trẻ học hát tiếng Anh, vì ở London có chừng 50% trẻ em gốc nước ngoài. Trẻ biết đọc truyện tranh thì hàng tuần có lớp nghe kể chuyện. Trẻ lớn hơn có các cuộc thi đọc truyện và đọc sách, với những nhóm sinh hoạt đều đặn. Hệ thống nhà trẻ cũng tổ chức các buổi cho trẻ làm quen với đồ chơi thông minh, cho mượn về nhà, kèm theo các lớp huấn luyện cho các bà mẹ về phương pháp dạy con thông minh. Tất cả đều miễn phí vì ngân sách lấy từ quận. Ngoài ra có những lớp năng khiếu mà quận tài trợ một phần: ca, múa, nhạc, thể thao, ngoại khóa… Xin lưu ý là tất cả những hoạt động vừa kể, bên cạnh cơ sở hạ tầng và vệ sinh, đều lấy từ ngân sách trực tiếp của quận là Council Tax và tiền kiếm được từ cho thuê bất động sản và phí giấy phép bán rượu, mà ủy ban quận hoạt động như một đơn vị hành chính sự nghiệp.

Trong quận Wandsworth có trường cao đẳng South Thames College chuyên về dạy nghề và tiếng Anh cho sinh viên dự bị nước ngoài, cùng đại học Roehampton nổi tiếng và trường mỹ thuật Putney Art. Chính quyền quận cũng khuyến khích các trường trên địa bàn mở các lớp buổi tối, giảm giá cho cư dân trong quận, dạy từ các khóa ngoại ngữ, văn hóa ẩm thực cho đến lịch sử và thẩm định mỹ thuật, làm phim, máy tính hay tư vấn tâm lý, y tá và giáo viên cấp cơ sở.

Dự án Olympic 2012

Ở tầm thành phố thì chính quyền thủ đô London thường hướng đầu tư và phát triển theo những dự án lớn, như hiện nay là công trình Olympic 2012. Trước đây London từng thành công khi phát triển khu cao ốc văn phòng mới ở Canary Wharf
[18]. Do khu tài chính Square Mile ở City of London[19] đã kín chỗ cho nên họ quyết định xây dựng một khu tài chính mới ở khu đất trước đây là nhà kho, bến bãi và cảng sông, nay gần như hoang phế. Đầu tiên là hệ thống đường tàu điện trên không – Docklands Light Railways[20]. Sau đó những tòa nhà kính thi nhau mọc lên, cứ sáu tháng một nhà tính từ ngày đặt móng đến ngày hoàn tất phần vỏ. Chỉ trong vòng 3 năm mà toàn bộ khu Docklands thay đổi đến không thể nhận ra. Hàng chục tòa cao ốc sáng rực về đêm với tòa tháp HSBC trở thành biểu tượng mới của London, mà ngay cửa ga tàu điện ngầm là văn phòng hãng tin Reuters, bao quanh là đủ mặt các ngân hàng và định chế tài chính thế giới.

Lần này khu Olympic Park sẽ giúp phát triển khu vực phía đông London, nặng về mục tiêu nâng cao hoạt động thể thao, văn hóa và giải trí cho dân cư trong vùng và cả thủ đô. Trước hết đó là công trình xây dựng
[21], nguồn tiền đầu tư một phần từ ngân sách và tiền thuế của dân chúng, giải quyết việc làm cho rất nhiều người. Về lâu dài thì đây sẽ là khu sinh thái qui mô nhất châu Âu trong vòng 150 năm trở lại đây, với nhiều loại cây bản địa và nơi sống cho thú hoang dã ngay giữa lòng thành phố. Ngay trong quá trình xây dựng, hàng năm dự án Olympic 2012 vẫn tổ chức nhiều sự kiện để duy trì mối quan tâm của người dân trong vùng và trên toàn nước Anh. Lễ hội năm nay diễn ra trong ba ngày 24-26.7.2009, qui tụ 700.000 người tham gia 655 sự kiện lớn nhỏ khác nhau.

Trong khuôn khổ của dự án Olympic 2012, nhiều tổ chức và hội đoàn cũng đầu tư xây dựng các khu dân cư, ví dụ như dự án làng Việt Nam của hội An Việt
[22]. Thiết kế dự tính sẽ khắc họa những nét văn hóa nổi bật của Việt Nam như Quan họ Bắc Ninh và những di sản vật thể như kiến trúc nhà sàn của người Tày-Nùng, tháp chàm Chămpa, nhà rông Tây Nguyên… trong khu vực diện tích 125.000m2. Khu tổ hợp thương mại gồm 200 văn phòng, khách sạn 100 phòng, căn hộ cao cấp, trung tâm thể thao, khu kinh doanh và ẩm thực bố cục đối xứng qua một quảng trường nằm giữa. Khu tín ngưỡng chủ yếu là chùa Phật giáo. Khu văn hóa dân gian sẽ có sân khấu ngoài trời với 500 chỗ ngồi. Các cộng đồng sắc tộc ở London cũng có những dự án tương tự, ví dụ khu Hồi giáo với số vốn dự tính khoảng 300 triệu bảng Anh.

Tuy vậy, bên cạnh dự án thành công như Canary Wharf, London cũng có nhiều dự án thất bại hoặc đang gặp khó khăn, ví dụ như nguy cơ phá sản của công trình thế kỷ Millenium Dome, hay kế hoạch phát triển sân bay Heathrow. Để tiếp tục phát triển bền vững, cảng hàng không bận rộn nhất thế giới này cần xây thêm một đường băng, nhưng dân cư các phường và quận huyện xung quanh đã liên kết phản đối. Câu chuyện vượt khỏi tầm thành phố và lên đến mức trung ương. Quốc hội phải mở phiên điều trần và lập các ủy ban nghiên cứu chuyên sâu. Lợi ích kinh tế phải được cân nhắc bên cạnh các yếu tố về di sản, văn hóa, cuộc sống cộng đồng và quyền lợi cá nhân của mỗi cư dân.

Kết luận sơ bộ

Thủ đô London của Anh quốc là mô hình phát triển theo qui hoạch quận huyện. Không có cơ quan hành chính cấp phường xã. Văn phòng ủy ban quận là cơ quan hành chính sự nghiệp và chính trị cơ sở, giải quyết hầu hết tất cả mọi vấn đề có liên quan đến cuộc sống hàng ngày của cư dân: từ hạ tầng, vệ sinh, giáo dục, y tế cho đến trợ cấp xã hội, giúp và phát triển các cộng đồng người nước ngoài, lễ nhập quốc tịch… Cơ quan hành chính toàn thành phố thiên nhiều về chính trị và quan hệ đối ngoại, mọi dự án phát triển đều phân cấp thực hiện về mức quận huyện. Ngay cả cơ quan trung ương đóng trên địa bàn thành phố cũng tập trung về một quận là City of Westminter
[23], hay trung tâm tài chính quốc tế có thiên hướng nằm gọn trong khu vực City of London. Người dân Anh có xu hướng sống và sinh hoạt trong khu village hay town của mình, ngăn cách gia đình và công việc bằng tuyến giao thông nội thành hoặc liên tỉnh. Quá trình phát triển và mở rộng London bước cùng nhu cầu lịch sử kinh tế và xã hội. Đây là mô hình tiêu biểu để đối chiếu với các thành phố – thủ đô được thiết kế tổng thể (grand-design) như Brasilia[24], Mátxcơva và Warszawa.

Một trong số các bí quyết “phát triển bền vững” của London là sự xuyên suốt từ địa phương ở cấp tổ dân phố, phường xã lên đến trung ương thông qua hệ thống các tổ chức xã hội, vừa lâu đời, vừa được lập mới để phù hợp với xã hội đương đại và các mối quan hệ trực tiếp và gián tiếp. Trường đại học, bệnh viện, doanh nghiệp và các cơ sở văn hóa liên kết chặt với cộng đồng, không chỉ để giải quyết và khai thác nguồn lực lao động và quan hệ, mà còn cùng nhau xây dựng hướng phát triển. Mối liên kết này có thể mở rộng ra các vùng miền và quốc gia khác. Bản sắc London và Anh quốc qua đó cũng được đặt nền tảng trên lịch sử phát triển có đến 2.000 năm của khu đô thị này.

Đó là hai kinh nghiệm mà Việt Nam có thể nghiên cứu và tận dụng từ bài học phát triển của London. Đây có thể là đề tài khảo sát cho sinh viên cao học, chuyên gia và cán bộ kết hợp đi công tác, thăm thân, hay học tiếng Anh ở London để tiếp xúc và thu lượm số liệu, quan sát, phỏng vấn và nghiên cứu trong khoảng thời gian từ một tuần đến ba tháng, tùy yêu cầu và điều kiện tài chính của đề tài. Các lĩnh vực nghiên cứu cũng rất đa dạng và liên ngành: qui hoạch, kinh tế, tài chính, doanh nghiệp, cộng đồng, xã hội, lịch sử, địa lý, môi trường, di dân, hành chính, luật pháp và bản sắc dân tộc, hội nhập, bảo tồn và phát triển…

[1] Con số thống kê quốc gia theo Office for National Statistics, tháng 2.2009, có thể truy cập từ trang mạng của Ủy ban hành chính London Government Office for London http://www.gos.gov.uk/
[2] Ví dụ theo ghi nhận từ Văn phòng các cảng hàng không quốc tế http://www.aci.aero/
[3] Nhiều chi tiết và câu chuyện nổi bật được ghi nhận ở Bảo tàng London http://www.museumoflondon.org.uk/
[4] Trang mạng của hệ thống giao thông công cộng London http://www.tfl.gov.uk/ có thể giúp hướng dẫn đường đi và ước tính số thời gian cần thiết.
[5] Trang dịch vụ điện tử ở địa chỉ http://www.wandsworth.gov.uk/. Cần chú ý rằng City of London cũng là một đơn vị như vậy, nằm ngay trung tâm, trang dịch vụ điện tử ở địa chỉ http://www.cityoflondon.gov.uk/
[6] Chi tiết từ cuộc bầu cử nghị viện châu Âu năm 2008 cũng được tác giả mô tả trong một số bài viết:
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/aboutuk/2009/06/090605_eu_election.shtml
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/aboutuk/2009/06/090604_eu_election_grassroot.shtml
[7] Friends of Richmond Park http://www.frp.org.uk/
[8] Viết sử địa phương là hoạt động phổ biến ở nước Anh, có thể tìm hiểu thêm qua trang mạng http://www.bbc.co.uk/history/trail/local_history/, hoặc loạt chương trình do tác giả từng biên soạn cho chương trình BBC tiếng Việt http://www.bbc.co.uk/vietnamese/programmes/story/2004/12/history_skill.shtml
[9] Liên lạc qua trang mạng ở địa chỉ www.royalparks.org.uk/parks/richmond_park
[10] http://www.wpcc.org.uk/
[11] http://www.wimbledonpark.com/
[12] http://www.wphg.demon.co.uk/
[13] Roehampton Garden Society: http://www.roehamptonallotments.co.uk/
[14] http://www.kingstonhospital.nhs.uk/
[15] Hội đồng “phụ huynh” trong trường được gọi là Governor, cho phép một số người dân bình thường tham gia, không nhất thiết phải là phụ huynh học sinh trong trường, xem thêm ở trang hướng dẫn của chính phủ http://www.governornet.co.uk/
[16] Văn phòng mạng ở địa chỉ http://www.stuartking.net/
[17] Văn phòng mạng ở địa chỉ http://www.justinegreening.co.uk/
[18] Chi tiết có thể đọc thêm trên trang http://www.canarywharf.com/
[19] http://www.cityoflondon.gov.uk/
[20] Trang mạng ở địa chỉ www.tfl.gov.uk/dlr
[21] Các thông tin cập nhật mới nhất về dự án ở văn phòng ảo http://www.london2012.com/
[22] Có văn phòng trên mạng Internet ở địa chỉ http://www.anvietuk.org/
[23] Văn phòng ảo ở địa chỉ http://www.westminster.gov.uk/
[24] Một số ảnh chụp kiến trúc qui hoạch của Brasilia của tác giả được giới thiệu trên trang BBC tiếng Việt tại địa chỉ http://www.bbc.co.uk/vietnamese/inpictures/story/2008/05/080507_brasiliagallery.shtml

Wednesday, October 28, 2009

Minh triet Gia dinh

Minh triết gia đình trong bản sắc dân tộc Việt Nam - Vốn xã hội để phát triển bền vững

Lê Thanh Hải[1], Huế 25.XI.2009



Nhìn minh triết từ góc độ ứng dụng (Ryan 2007) cho quá trình phát triển của Việt Nam, bài viết này tiếp tục triển khai những phác thảo về nghiên cứu đi kèm ứng dụng đã trình bày từ hội thảo trước (Lê Thanh Hải 2009a), dựa trên các khảo sát điền dã[2] và phỏng vấn xã hội học được thực hiện từ năm 2002.
Bản sắc dân tộc có thể được coi là thực tại văn hóa biến chuyển theo tiến trình lịch sử. Văn hóa đó bao gồm phần vật chất và phi vật chất. Văn hóa phi vật chất chủ yếu là phần tâm linh, tín ngưỡng và phần di sản về kinh nghiệm, kiến thức, nguyên tắc ứng xử, luật tổ chức cộng đồng được truyền đạt qua lịch sử hình thành và phát triển dân tộc. Thể hiện tại của minh triết trong khu vực này của bản sắc văn hóa dân tộc tồn tại qua tư duy cuộc sống đời thường của người dân từ nhiều tầng lớp bộ phận khác nhau của dân tộc, cho phép phân tích và chiết xuất từ những cuộc nói chuyện thông thường nhưng có chủ đích nhằm khảo sát về nhận thức và ý thức dân tộc. Những đoạn đặc trưng được mã hóa và tổng hợp dần thành loại hình và xây dựng thành lý thuyết, tức là nội dung phỏng vấn ít chính thức được xử lý bằng phương pháp grounded theory (Lê Thanh Hải dịch 2008a, 2008b). Vấn đề nổi bật nhất bộc lộ từ dữ liệu điền dã là minh triết gia đình được trình bày theo lối diễn giải (interpretive) và liên kết với hệ thống văn bản (tài liệu nghiên cứu, thơ văn, ca dao) để tìm sự thông hiểu (understanding) đối với phần minh triết trong bản sắc dân tộc Việt Nam và định hướng tư duy phát triển bền vững (sustainable development) cho xã hội Việt Nam đương đại.
Trong quá trình phân tích những mối quan hệ và hệ giá trị trong cộng đồng địa phương và dân tộc ở những người tham gia khảo sát, các vấn đề liên quan đến gia đình nổi lên rất rõ nét từ tư liệu nguồn (xem kết quả được kèm theo trong bảng 1 và 2, phần bổ sung). Mối quan hệ họ hàng cũng là kết quả được nhiều nghiên cứu về chiều sâu của xã hội Việt Nam phát hiện, như khảo sát về các giá trị trên thế giới được thực hiện ở Việt Nam năm 1999 (Russell Dalton và Ong Như Ngọc 2001), mà Nguyễn Quang Tuấn (2008) từng ghi nhận mức độ quan trọng của hệ thống hương ước hay luật tục cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường. Hệ giá trị ơn-nghĩa-hiếu cũng thể hiện ra trong các nghiên cứu định tính như của Neil Jamieson (1995). Hệ giá trị này tiếp tục nổi bật trong các nghiên cứu cộng đồng người Việt ở nước ngoài như Mỹ (Kibria 1993, 1998, Zhou & Bankston III 1998, Centrie 2004, Do Duc Hien 1999, Reed-Danahay 2008, Espiritu 2006, Freeman 1989, Lê Nguyễn Cường 2007), Úc (Nguyen Huynh Chau 2005, Ho Dac Tuc 1997), Anh (Joly 1988, Bagwell 2006, Vũ Khánh Thành 2006, Sims 2007), và các nước đông Âu (Nguyen Quang Thuan 2008, Lê Thanh Hải 2006, Huwellmeier 2008, Grzymala-Kazlowska 2008, Halik 2008).
Để có thể tồn tại bền vững trong mọi hoàn cảnh, môi trường, thay đổi như được ghi nhận trong nhiều nghiên cứu với nhiều cộng đồng người Việt khác nhau trong các điều kiện kinh tế văn hóa và xã hội ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới, hệ giá trị minh triết gia đình chắc hẳn phải bám rễ rất sâu trong truyền thống văn hóa dân tộc. Giả thiết này được minh chứng qua các nghiên cứu lịch sử của giới chuyên gia văn hóa trong vùng châu Á Thái Bình Dương với phát hiện về hệ thống mandala và negara từng là định chế chính trị cho cả khu vực (Mackerras 2000, Geertz 1980). Tư duy về hệ thống quyền hạn phân tán không theo lối tập trung trung ương và được duy trì thông qua mối quan hệ gia đình chính là tâm điểm của định chế này. Đối với mỗi con người Việt Nam thì ý thức về gia đình được giáo dục cho trẻ em từ lúc tập đi, như phát hiện của Helle Rudstrom (2003) và tinh thần quay về nguồn cội, làng quê luôn được duy trì trong suốt phần đời còn lại của mỗi con người (Jellema 2007). Trong khi tiếng nước ngoài và ngay cả ngôn ngữ của nước láng giềng vốn ảnh hưởng nhiều lên Việt Nam là Trung Quốc có số lượng đại từ xưng hô hạn chế thì không chỉ người nước ngoài học tiếng Việt gặp rắc rối khi xưng hô mà ngay cả nhiều người Việt khi đến vùng miền khác cũng không biết ở địa phương này người ta nên gọi nhau như thế nào cho phải phép: chú em, hay em, dì hay mợ, bà hay cụ, mẹ hay bầm, bác hay cụ... Lối xưng hô theo kiểu họ hàng đã gắn quá sâu với văn hóa Việt Nam cho nên dù có thời gian người ta muốn gọi nhau bằng đồng chí, hay gần đây trong cơ quan muốn dùng nhân xưng anh-chị thì những cuộc nói chuyện giữa cô, chú, bác và cháu vẫn tiếp tục được duy trì. Mô hình công ty gia đình, tức là các thành viên trong một gia đình chiếm các vị trí quyền lực áp đảo, là chuyện thường gặp trong các công ty nước ngoài, kể cả từ phương Tây, vốn được xem là môi trường phát triển cho cá nhân. Giới chuyên gia phát triển từ nước ngoài hoặc thành phố về các vùng nông thôn dần hiểu ra rằng họ không thể bỏ qua yếu tố các mối quan hệ gia đình ở phía đối tác, tức là cả cơ cấu lãnh đạo địa phương lẫn địa bàn được giúp phát triển. Khi đem chủ nghĩa Mác và tư tưởng dân tộc vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khéo léo vận dụng vào môi trường văn hóa Việt Nam, như dạy trẻ em "yêu tổ quốc, yêu đồng bào" giống như chúng được dạy phải yêu cha mẹ ông bà khi ở nhà, hay giáo huấn các lực lượng vũ trang phải "trung" và "hiếu", vốn là những hệ giá trị họ đã sẵn thấm nhuần từ những năm tháng trưởng thành từ làng quê. Minh triết gia đình là vấn đề không thể thiếu được khi cân nhắc và quyết định chính sách phát triển cho địa phương. Nói cách khác, minh triết gia đình chính là vốn xã hội để phát triển bền vững.
Minh triết gia đinh bao gồm hay nhóm chính, thứ nhất là những qui định đã trở thành giá trị đạo đức về gia đình, và thứ hai là những giá trị minh triết được gia đình bảo tồn, có khi tổ chức ngược lại với đạo đức chính thức hay đa số trong xã hội, nhưng mang tính quyết định trong tư duy của mỗi cá nhân khi hành xử. Như vậy minh triết gia đình không phải chỉ đơn thuần là một bộ sưu tập ca dao tục ngữ nói về gia đình đang được gia đình công nhận và lưu truyền, mà là một hệ thống phức tạp tồn tại và liên tục luân chuyển trong cuộc sống hàng ngày, gắn chặt với môi trường sống đặc thù. Có những giá trị minh triết phổ quát được phát triển thành chủ thuyết chính trị toàn quốc, nhưng khi áp dụng tại một địa phương hoặc trong một giai đoạn đặc thù của lịch sử thì lại là giá trị âm. Nhiều ca dao tục ngữ người ta chỉ đọc cho vui chứ không ai tin hoặc thực hiện theo. Có những giá trị minh triết vốn chỉ lưu truyền trong một khu vực rất nhỏ nhưng gặp thời sẽ nhanh chóng lan ra toàn quốc mà hệ thống chữ nghĩa chưa kịp ghi nhận. Đứng từ góc độ phát triển và đặc biệt là phát triển bền vững cho một khu vực, vùng miền, thì những giá trị minh triết đương thời chính là nguồn vốn xã hội chắc chắn nhất để làm cơ sở hạ tầng. Và đơn vị để khảo sát, nắm bắt giá trị này không gì khác hơn, như đã trình bày, là minh triết gia đình. Và trong quá trình phát triển đó, nhiệm vụ của nhà xã hội học và nhà triết học là minh triết hóa những giá trị dương tính của hệ thống minh triết gia đình đương đại.

[1] Tác giả hiện đang là nghiên cứu sinh tại Viện hàn lâm khoa học Ba Lan, viện triết và xã hội học, email: thanhai@wp.pl[2] Khảo sát được thực hiện tại 54 trên tổng số 61 tỉnh thành của Việt Nam tại thời điểm đó (Bản đồ hành chính 2001 và Tổng điều tra dân số 1999), phỏng vấn và nói chuyện với 185 người, khảo sát được thực hiện bằng xe máy qua 11.000km trong hơn 3 tháng từ 5.VII đến 17.X.2002. Các tỉnh vùng Việt Bắc là Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Cạn không thể đến được do lũ lụt, hai tỉnh ven biển của vùng đồng bằng Sông Cửu Long là Bến Tre và Trà Vinh cũng không kịp ghé qua do hết quĩ thời gian.

Tham khảo:
Centrie, Craig 2004, Identity formation of Vietnamese immigrant youth in an American high school, LFB Scholary Publication (University of Michigan).

Deborah Reed-Danahay & Caroline Brettell 2008, Introduction, in Deborah Reed-Danahay & Caroline Brettell ed. 2008, Citizenship, Political Engagement, and Belonging: Immigrants in Europe and the United States, Rutgers University Press.

Do, Duc Hien 1999, The Vietnamese Americans, Greenwood Publication

Espirity, Yen Le & Thom Tran 2006, Viet Nam, Nuoc Toi (Vietnam, my country): Vietnamese Americans and Transnationalism, in (Levitt & Waters ed. 2006, chapter 15)

Freeman, James M. 1989, Hearts of Sorrow: Vietnamese-American Lives, Stanford University Press.

Geertz, Clifford 1980, Negara: the theatre state in 19th-century Bali, Princeton University Press

Gertrud Huwelmeier 2008, Spirits in the Marketplace: Transnational Networks of Vietnamese Migrants in Berlin, in Michael Peter Smith & John Eade ed. 2008, Transnational Ties: Cities, Migrations, and Identity, in the series of Comparative Urban and Community Research vol.9, Transaction publication.

Grzymala-Kazlowska, Aleksandra 2008, [Separation, integration of assimilation? Adaptation strategies of immigrants from Ukraine and Vietnam in Poland] Separacja, integracja czy asymilacja? Strategia adaptacyjne osiadlych w Polsce imigrantow z Ukrainy i z Wietnamu, in Kultura i Spoleczenstwo LII(2) April-June 2008, Warszawa ISP PAN

Halik, Teresa 2008, Vietnamese community in Poland (in the eyes of state administration and the people), in The Third International Conference on Vietnamese Studies at Hanoi, 4-7 December 2008.

Ho, Dac Tuc 1997, Vietnamese-English Bilinguals in Melbourne: Social Relationships in the Code-Switching of Personal Pronouns, in Language, Society & Culture issue 2, 1997, Internet publication by University of Tasmania.

Jamieson, Neil 1995, [Hiểu Việt Nam] Understanding Vietnam, University of California Press

Jellema, Kate 2007, Returning Home: Ancestor Veneration and the Nationalism of Doi Moi Vietnam, in P. Taylor ed. 2007, Modernity and Re-enchantment Religion in Post-revolutionary Vietnam, Vietnam Update Series, ISEAS Publishing.

Joly, Daniele 1988, Refugees from Vietnam in Birmingham: Community, Voluntary agency and The role of Local authorities, Research paper nr.9 of Centre for Research in Ethnic relations, University of Warwick.

Kibria, Nazli 1993, Family Tightrope: The changing Lives of Vietnamese American, Princeton University Press

Kibria, Nazli 1998, Household Structure and Family Ideologies: The Case of Vietnamese Refugees, in Karen V. Hansen & Anita Ilta Garey ed. 1998, Families in the United States: Kinship and Domestic Politics, Temple University Press, chapter 5.

Lê Thanh Hải 2009a, Minh Triết và Phát Triển, tham luận tại hội thảo Minh triết tại Hà Nội, 22.IX.2009

Lê Thanh Hải dịch 2008a, Phương pháp phỏng vấn ít chính thức, dịch từ giáo trình xã hội học của Đại học De Montfort 2001 (1996) Research Skills for Students, chương 22, NXB Kogan Page Anh quốc.
Lê Thanh Hải dịch 2008b, Phương pháp dữ liệu, dịch từ giáo trình của GS Robert Brewer 2007, Your PhD Thesis - How to plan, draft, revise and edit your thesis, NXB Studymates

Lê Thanh Hải 2006, The Vietnamese in Eastern Europe, in Conference on The experience of Integration - 30 years of the Overseas Vietnamese, London Metropolitan University 22.III.2006

Levitt, Peggy & Mary C. Waters ed. 2006, The Changing Face of Home: The Transnational Lives of the Second Generation, Russell Sage Foundation.

Mackerras, Collin 2000 (1992), Eastern Asia - An Introductory History, Third Edition, NXB Longman

Nguyễn Quang Tuấn 2008, Phát huy vốn xã hội trong bảo vệ môi trường, Tạp chí Cộng sản online 11.VI.2008 http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=4&News_ID=9653761

Nguyen, Huynh Chau Nathalia 2005, Voyage of hope: Vietnamese Australian women's narratives, Common Ground

Nguyen, Quang Thuan 2008, Some issues concerning Vietnamese community in some eastern European countries, in The Third International Conference on Vietnamese Studies at Hanoi, 4-7 December 2008.

Rudstrom, Helle 2003, Embodying Morality - Growing Up in Rural Northern Vietnam, University of Hawaii Press

Ryan, Sharon 2007, [Định nghĩa Minh Triết] Wisdom, Từ điển triết học ĐH Stanford, bản online ở địa chỉ http://plato.stanford.edu/entries/wisdom/

Thai, Hung Cam 2008, For Better or for Worse: Vietnamese International Marriages in the New Global Economy, Rutgers University Press

Vũ Khánh Thành 2006, Where did the success of the overseas Vietnamese originate?, in Conference on The experience of Integration - 30 years of the Overseas Vietnamese, London Metropolitan University 22.III.2006

Zhou, Min & Carl Leon Bankston III 1998, Growing up American: how Vietnamese children adapt to life in the United States, Russell Sage Foundation.

Zink, Eren 2008, The science of returning home: an anthropological case study of young Vietnamese scientists returning home from studies abroad, in The Third International Conference on Vietnamese Studies at Hanoi, 4-7 December 2008.

Bảng 1: Các khái niệm được nhắc đến nhiều trong phần trao đổi về địa phương

Khe Sanh, DMZ, There, Dong Ha, Song Be, Quang Tri, Thai Binh, Nghe An, Ha Tinh, Hong Ngu, Song Lam, From, Go Vap, Tra Kieu, Song Be,Here, Hoa Binh, Live, Phan Thiet, Work, Dung Quat, Da Nang, Daklak, Cu Chi, Born, Vung Tau, Kinh Te Moi, Study, Qui Nhon, Chau Doc, Phu Quoc, Rach Gia, Kien Giang, Hue, Quang Xuong, Sai Gon, Ha Noi, Lam Dong, Ho Nai, Dong Nai, Dam Ha, Ha Dong, Ha Nam, Ninh Binh, Tay Bac, Ha Tay, Cau Muoi, Soc Trang, Tien Giang, Ba Queo, Vinh Long, Binh Dinh, Poland, Russia, Marriage, Germany, China, Hongkong, Mecca, Malaysia, Thailand, Hai Duong, Quang Ninh, Bac Ninh, Father, Mother, Parent, Husband, Children, Wife, Childhood, Rach Gia, Quang Nam, Da Lat, Phong Hai, Lang Son, Mong Cai, Lao Cai, Truong Sa, Hai Duong, Phu Tho, Vinh Phuc, Phan Rang, Di Linh, Cu Chi, Tay Ninh, Kontum, Cao Lanh.

Bảng 2: Các khái niệm được nhắc đến nhiều trong phần trao đổi về quốc gia

Cochichina, Hanoi, Dao, Thuong, Dega, Nung, Cham, Viet, Lolo, Tay, Meo, Kinh, Muong, Khmer, Here, Quang Tri, Ben Tre, There, Long Xuyen, Bach Mai, Da Lat, Poland, Australia, Germany, Czech, France, Russia, Spain, Arab, Nicaragua, North, UK, Japan, Central, America, South, West, East, Malaysia, China, Thailand, Mien, Saigon, Tieu, China, Live, India, Belgium, Taiwan, Work, Laos, Study, Phu Quoc, Ha Tien, Children, Lang Son, Tam Thanh, Hai Duong, Bac Ninh, South East Asia, Asia, Indonesia, Wife, Husband, Father, Mother, Parent, Born, Marriage, Cambodia, Hue, Ho Chi Minh City, Hai Phong, Tay Bac, Vietnam, Tran Hung Dao, Le Dynasty, Ho Chi Minh, Buddhism, Hoa Hao, Confucianism, Ha Long, Bac Giang, Nom, Christianism, An Giang, Buon Me Thuoc, Can Tho, Bac Ninh

Saturday, September 26, 2009

Ly thuyet nghien cuu phat trien vung

Hanoi Conference 11.XI.2009

GS TSKH Joanna Kurczewska và ThS Lê Thanh Hải
[1]

Tư duy lý thuyết trong nghiên cứu phát triển vùng - Trường phái Ba Lan


Tóm lược:

Xã hội thực tại là cách nhìn cổ điển trong nghiên cứu địa phương, gắn liền với một khu vực địa lý hoặc cộng đồng nhất định. Người nghiên cứu thường sử dụng hệ qui chiếu là các cặp phạm trù đối lập như cộng đồng - hiệp hội, quan hệ tích cực - tiêu cực, biệt lập khép kín - mở rộng hội nhập, và không gian - thời gian. Sự quay lại của xu hướng nghiên cứu địa phương trong nửa sau của thế kỷ 20 quan tâm nhiều hơn đến không gian xã hội tâm linh, tức là không còn gắn chặt với khu vực địa lý mà khi đó có thể mở rộng ra vùng miền hay quốc gia. Tư tưởng địa phương sẽ được đặt đối lập với chủ nghĩa tập trung, tư tưởng trung ương, hay chủ nghĩa toàn cầu và chủ nghĩa dân tộc văn hóa. Nằm giữa và mang tính nối kết cả hai cách nhìn vừa kể trên - xã hội thực tại và tâm linh, hệ qui chiếu đối lập và phi cấu trúc - là nhân sinh quan "tiểu quốc" được các nhà xã hội học và nhân học Ba Lan phát triển trong thập niên 1990s, cho phép liên kết các ngành sử học, triết học, văn hóa và ngữ văn. Khái niệm "tiểu quốc" trong tư duy nằm ở giữa cá nhân thuần túy và cộng đồng trừu tượng, cho phép giải thích mối liên kết giữa chính trị và văn hóa - kinh tế, địa phương và quốc gia, giữa nghiên cứu và đóng góp công dân. Bài viết này sẽ hệ thống hóa góc nhìn trong nghiên cứu phát triển vùng và giới thiệu trường phái Ba Lan nhằm xác định vị trí cho người nghiên cứu tại Việt Nam trong bối cảnh phương pháp áp dụng mô hình có sẵn đang dần được thay thế bằng xu hướng tự xây dựng bản đồ địa hình trong tư duy trong nghiên cứu khu vực.



Ngành xã hội học Ba Lan đang là một trong những hệ qui chiếu về lý thuyết thuộc nhóm đi đầu trên thế giới, bên cạnh các trung tâm nghiên cứu đang tạo ra nhiều ảnh hưởng sâu rộng như Đức, Anh, Mỹ và Nhật. Điểm đặc biệt mà Việt Nam có thể tiếp thu từ trường phái Ba Lan là quan điểm của giới khoa học ở Ba Lan cho rằng ngành xã hội nhân văn ở mỗi quốc gia cần phải được xây dựng dựa trên những đặc thù văn hóa và ngôn ngữ riêng của dân tộc đó, bên cạnh quá trình giao thoa và hội nhập với mặt bằng phát triển chung của toàn ngành trên thế giới. Từ những buổi đầu, các nghiên cứu xã hội và nhân văn của Ba Lan đã đặt nền móng từ chính những giáo sư Ba Lan mà sau này trở thành chuyên gia đầu ngành ở các nước phương Tây như GS Znaniecki (chủ tịch hội xã hội học Hoa Kỳ, cha đẻ trường phái Chicago), GS Malinowski (cha đẻ ngành nhân học Anh) và GS Bauman (triết gia đương đại, cha đẻ của hệ thống lý luận về hiện đại và hậu hiện đại). Quá trình chuyển đổi của Ba Lan 20 năm qua cũng là môi trường được các nhà khoa học hàng đầu thế giới quan tâm đặc biệt, nghiên cứu rút tỉa bài học phát triển, lẫn xây dựng hoàn chỉnh hệ thống lý thuyết của mình. 5 năm trở lại đây, Viện triết và xã hội học thuộc Viện hàn lâm khoa học Ba Lan lại một lần nữa dẫn đầu các nghiên cứu trên thế giới về vấn đề địa phương - vùng miền, một trong những câu hỏi lớn nhất trong thời toàn cầu hóa và hội nhập: bản sắc, phát triển, và ranh giới văn hóa. Bài viết sẽ giới thiệu một số điểm chính và mô hình lý thuyết để nghiên cứu thực địa đã được áp dụng thành công ở Ba Lan để giới chuyên gia khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam có thể tham khảo và cân nhắc khả năng tiếp biến, ứng dụng. Giáo sư TSKH Joanna Kurczewska (2006) là người xây dựng hệ thống lý thuyết được ứng dụng rộng rãi tại Ba Lan nhưng ThS Lê Thanh Hải chịu trách nhiêm chủ yếu về nội dung của bài viết này, vì là người diễn dịch hệ thống đó sang tiếng Việt và tái dựng lại trên hệ thống các khái niệm đương đại trong ngành xã hội nhân văn tại Việt Nam.

Khái niệm vùng

Trước hết các trình bày nguyên thủy của lý thuyết này nhằm để áp dụng cho các quần thể xã hội nhỏ - mang tính địa phương, lokalnosc trong tiếng Ba Lan, tức làng xã trong tiếng Việt, hoặc cũng có thể mở rộng ra thành quận, huyện, hay thậm chí tỉnh, quốc gia - nhưng điểm chú trọng của nó là về các hiện tượng như xã hội, văn hóa xã hội, hệ thống chính trị, đa văn hóa, nhân sinh quan, huyền thoại xã hội. Lý thuyết này nhìn quần thể xã hội như một tập hợp các hệ thống xã hội tĩnh và động có quan hệ phức tạp với nhau, làm phương pháp cho các nghiên cứu điền dã và lịch sử - lý thyết đối với nhiều địa phương ở Ba Lan trong thời gian chuyển đổi kinh tế, chính trị và xã hội vừa qua, nắm bắt các trật tự xã hội cơ bản và nguyên tắc chung trong diễn giải phục vụ xây dựng lý thuyết xã hội học và nhân học. Hướng đi này cũng tương tự với những phát triển hiện tại của ngành community studies
[2] trên thế giới, chuyên nghiên cứu sự phát triển của các cộng đồng dân cư và xây dựng chính sách (Lê Hải 2008a). Tức là, việc khoanh vùng nghiên cứu không nhất thiết đặt nặng vào số lượng dân cư hay điều kiện địa lý của khu vực, mà vào khả năng tổng hợp và phân tích, áp dụng của phương pháp và người nghiên cứu. Về cơ bản có hai cách nhìn.

Cách nhìn thứ nhất thường sử dụng khái niệm "xã hội địa phương" và đề cập tới các mối quan hệ xã hội trong đó, hoặc các hệ giá trị, biểu tượng và quyền lợi chủ quan. Cách nhìn này là kết quả của lối phân chia giữa xã hội thực tại (các mối quan hệ xã hội) và những gì thuộc về thế giới của những biểu tượng văn hóa được hiện vật hóa (ví dụ như văn hóa tín ngưỡng). Khi đó xã hội địa phương được coi như một thể có thực, được tạo ra trong quá trình trao đổi giữa các thành viên và nhóm để tạo ra quần thể xã hội hoặc văn hóa. Cách nhìn thứ hai không quan tâm đến mối quan hệ vật chất hay địa lý, mà chỉ nói chung về "địa phương" và đề cập đến khu vực biểu tượng văn hóa thông qua cấu trúc và sự vận động của nó, đặc biệt là những tưởng tượng
[3] từ cơ bản, thành phần đến phức tạp (ví dụ như văn hóa tâm linh). Khi đó tùy thuộc theo lối phân chia theo trường phái nhìn xã hội qua tập thể hay cá nhân mà địa phương qua tưởng tượng này được coi là kết quả của một tập hợp xã hội - cộng đồng hay hiệp hội - hay là thuộc tính tư duy và tình cảm của trải nghiệm cá nhân trong một thực tại xã hội phức tạp. Hai cách nhìn vừa kể có thể được phối hợp trong nghiên cứu khảo sát đặt nặng lối phân chia trong phương pháp và lý thuyết, tức là lối tiếp cận diễn giải, hay nói khác hơn là hệ tọa độ để khảo sát khu vực đó, kết hợp cả "xã hội địa phương" lẫn "địa phương", mà một số hệ thống đối chiếu sẽ được trình bày tiếp theo đây.

Bốn cặp phạm trù

Mục tiêu của bài viết này nhằm đưa ra một cách nhìn toàn diện và hệ thống về các phương pháp có thể dùng trong nghiên cứu vùng, cho nên việc chọn lựa sẽ sử dụng những thành phần nào sẽ tùy thuộc hoàn toàn vào mục tiêu của nghiên cứu cụ thể hoặc điều kiện thực tế có được. Về cơ bản khi phân tích "xã hội địa phương" như cách nhìn thứ nhất vừa kể trên, người ta thường phân chia các nhóm hoặc cơ chế trong mối quan hệ với môi trường vật chất xung quanh thành những cặp đối lập. Đây cũng là cách nhìn cổ điển của ngành xã hội học cuối thế kỷ 19, đặt quần thể người trong mối quan hệ xã hội - văn hóa ứng xử như cách gọi của Trần Ngọc Thêm (2001) - với môi trường sống tự nhiên và văn hóa xung quanh. Sự quay lại của trường phái này trong nửa sau của thế kỷ 20 đi cùng với những khái niệm được sửa đổi hoặc đặt mới cho phù hợp như "vốn xã hội" - thước đo mật độ các mối quan hệ xã hội trong cộng đồng (Fukuyama 1999, Putnam 2004). Nếu nhìn đối tượng nghiên cứu như một dự án xây dựng và phát triển địa phương thì có thể phân tích cấu trúc và hoạt động của mối quan hệ xã hội đó qua bốn cặp phạm trù cơ bản.

Đầu tiên, quần thể xã hội địa phương có thể được tập hợp qua mô hình cộng đồng hay hiệp hội
[4]. Cộng đồng dân cư thường gắn liền với nơi cư ngụ, có nhiều mối quan hệ hữu cơ, đa dạng, chồng chéo và trực tiếp giữa các thành viên với nhau, tích cực kết dính trong không gian xã hội qui mô nhỏ và không cần đến nhiều cơ chế và nhóm họp, mang tính gần như là gia đình. Trong khi đó dạng thức hiệp hội hay câu lạc bộ thường thiên về các mối quan hệ gián tiếp, ít gặp mặt trực tiếp, chọn lựa theo lợi ích, duy trì trong không gian xã hội mở rộng, vượt ra ngoài quan hệ hàng xóm hay nhóm nguyên thủy, ngày càng mở rộng và gia tăng sự khác biệt trong các mối quan hệ xã hội.

Thứ hai, xã hội địa phương đó có thể được tập hợp dựa trên các mối quan hệ xã hội tích cực ví dụ như cùng một mục tiêu thịnh vượng chung hoặc cũng có thể là các mối quan hệ xã hội tiêu cực (mâu thuẫn, tranh chấp) mà họ cùng có đối với bên ngoài, hoặc một điểm định hướng chung, hoặc đối với ngay chính nhau.

Thứ ba, quần thể xã hội địa phương có thể được xét trong mối quan hệ đóng hoặc mở, biệt lập hay thu nhận. Một đằng không tạo điều kiện cho các hình thức tổ chức mang tầm quốc gia hoặc liên quốc gia, đằng kia có sẵn bản chất dễ tin tưởng vào "bên ngoài" - tức là các nhóm, cơ chế, văn hóa công cộng, cấu trúc quốc gia hoặc trên quốc gia - cho phép tồn tại nhiều mối quan hệ khác nhau cả bên trong lẫn bên ngoài, dễ dãi với môi trường văn hóa xung quanh.

Thứ tư là cặp phạm trù không gian và thời gian, mà người nghiên cứu trên cơ sở dữ liệu có được từ khảo sát điền dã sẽ cân nhắc xem cái nào là trục qui chiếu tối ưu nhất: truyền thống, không gian vật chất hay không gian xã hội; lịch sử hay khoảng cách vật chất và xã hội
[5]. Thời gian ở đây có thể là thời gian tuyến tính, tuần tự hay thời gian tương đối và mang giá trị như trong trải nghiệm. Không gian ở đây có thể là không gian địa lý hay không gian trong tư duy.

Tư tưởng địa phương

Bốn cặp phạm trù vừa giới thiệu thường xuất hiện trong các nghiên cứu về mối quan hệ xã hội thực tế khi khảo sát quần thể xã hội gắn liền với một địa phương cụ thể. Một số công trình nghiên cứu còn đề nghị thêm các phạm trù và hệ thống khái niệm khác nữa để khảo sát, hoặc cũng dùng hệ thống này để khảo sát nhân sinh quan về địa phương như trong cách nhìn về tư duy trừu tượng đã trình bày ở trên (xã hội tâm linh). Quan niệm về địa phương mà các thành viên của xã hội địa phương đó cùng giới chính trị và doanh nhân đều nghĩ giống nhau sẽ được tạm gọi là hệ tư tưởng địa phương. Khi đó tư duy này sẽ được đặt trong nhiều mối quan hệ khác nhau, kể cả sử dụng mối quan hệ đối lập lẫn các hệ thống không đối lập để khảo sát.

Cũng cần giải thích thêm là "tư tưởng địa phương" là tên gọi được tạm đặt cho khái niệm mới trong học thuật mà thuật ngữ tiếng Anh là localism, mô tả nhân sinh quan trong không gian tư duy để phân biệt với khái niệm quen gọi là chủ nghĩa địa phương hay chủ nghĩa cục bộ - regionalism, vốn theo cách hiểu cổ điển chỉ đề cập đến những mối quan hệ xã hội thực tế, liên quan đến địa phương và môi trường thực tế. Nếu trước kia, theo cách hiểu cổ điển, tư tưởng cục bộ là xu hướng tư duy đối lập với tư tưởng tập trung trung ương theo chính sách của Stalin, thì sau này, tư tưởng địa phương theo cách hiểu đương đại sẽ là xu hướng tư duy đối lập với chủ nghĩa toàn cầu - globalism, hay chủ nghĩa kinh tế tập trung - etatism, hoặc cả chủ nghĩa dân tộc văn hóa - cultural nationalism. Tư tưởng địa phương phát triển ở Mỹ và Tây Âu có thêm liên kết với hệ tư tưởng bảo thủ xã hội - social conservatism.

Tiểu quốc

Nếu phương pháp hệ thống hóa qua các cặp phạm trù hoặc nhìn vào tư tưởng địa phương trong tư duy của cộng đồng và xã hội đều đặt cơ sở trên cách nhìn thế giới qua các mặt đối lập, thì các nghiên cứu ở Ba Lan xây dựng khái niệm "tiểu quốc" như góc nhìn nghiên cứu tìm mẫu số chung cho mọi loại hình hiện tượng phức tạp thu nhận được từ đối tượng nghiên cứu. Bất kể được định nghĩa như thế nào, thì khái niệm tư duy này đều giúp không chỉ nhà nghiên cứu "nhìn thấy" kết cấu của xã hội và tư duy, vì "tiểu quốc" vừa đáp ứng các đòi hỏi về cấu trúc lẫn chức năng trong xã hội học hay khoa học tư tưởng, vừa phù hợp cho các biện chứng ở địa phương lẫn tầm quốc gia, dễ dàng thể hiện trong các hệ thống tư tưởng khác nhau.

Khái niệm tiểu quốc có khả năng làm cầu nối cho rất nhiều ngành học khác nhau: xã hội học, nhân học, sử học, nhân chủng học, triết học, văn hóa và ngữ văn, thông qua hệ thống khái niệm và diễn giải. Tiểu quốc là suy diễn của mỗi cá nhân về một tổ quốc, nằm giữa tưởng tượng của mỗi cá nhân về "bản thân" không có liên quan tới lãnh thổ địa lý, và một cộng đồng tưởng tượng như dân tộc, khu vực và thế giới, nối kết giữa cá nhân và cộng đồng ấy. Khái niệm tiểu quốc cũng có thể được dùng để nối kết giữa chính trị và văn hóa, chính trị và kinh tế như trong các chương trình nghị sự của hệ thống hành chính quốc gia và chính trị tự quản địa phương. Tiểu quốc cũng là tư duy được vật thể hóa và đề cập đến toàn thể văn hóa dân tộc trong mối quan hệ liên chủ quan. Lăng kính này cho phép người nghiên cứu hiểu được qui luật phát triển của từng cá nhân trong khu vực, cả nhóm đa số lẫn thiểu số, tư tưởng chủ đạo lẫn đối lập hoặc thay thế, cả chính sách thượng tầng trung ương lẫn hạ tầng tư duy
[6] cấp cơ sở, văn hóa chỉ đạo và bản địa lẫn văn hóa, nhìn thông suốt từ cá nhân lên đến cộng đồng dân tộc - quốc gia, từ góc nhìn của người làm chính sách hay vận động chính trị đến quần chúng tham gia và tác động dân sự. Thực ra đây cũng là một tiếp cận thực tế cho những chính sách phát triển văn hóa toàn cầu mà Unesco từng chủ xướng, và Việt Nam cũng từng thử nghiệm qua mô hình làng văn hóa (Nguyễn Khoa Điềm 2001). Mỗi quốc gia tùy theo điều kiện văn hóa chính trị và dân trí mà sẽ xây dựng và hoàn thiện chủ thuyết phát triển riêng. Giới khoa học Ba Lan cũng dành hàng chục năm thử nghiệm nhiều mô hình khác nhau, mà một trong số các chủ thuyết nổi bật hiện nay là hệ thống đào tạo hàng trăm "họa nhân văn hóa" (animator kultury) nhằm thông hiểu và kiến tạo văn hóa cơ sở, lấp dần các ranh giới vùng miền, khu vực nhưng không đánh đồng và tập trung xã hội (Godlewski 2002). Trong thời hậu hiện đại, bản sắc địa phương không nhất thiết phải gắn liền với một vùng miền cụ thể mà có thể thay đổi liên tục như những điểm đến của mỗi cá nhân trên con đường du lịch/hành hương vô tận (Bauman 1995). Bản sắc đó cũng được huyền thoại hóa qua văn chương, cho phép khảo sát qua tiếp cận của ngành ngữ văn (Sulima 2001).

Bản đồ tư duy

Cũng cần nói thêm là cơ sở phương pháp nghiên cứu cho hệ thống cách nhìn vừa giới thiệu cũng là trào lưu mới, cần được áp dụng đầy đủ. Trước hết đó là phương pháp luận cá nhân - methodological individualism
[7], đồng thời tôn trọng tính đa dạng của chủ thể - pluralism, khi nhiều không gian tự trị cùng tồn tại và tạo ra vật phẩm văn hóa chung (Walzer 1983). Tiếp nữa là nhà nghiên cứu có thể tham gia những hoạt động trong xã hội nhưng cần ghi nhận và cân nhắc những ảnh hưởng do chính mình gây ra, làm thay đổi xã hội đang khảo sát. Quan trọng nhất, như đã nhắc từ đầu bài, nhà nghiên cứu cần từ bỏ lối tư duy lỗi thời theo kiểu áp dụng đại trà một mô hình đồng nhất cho tất cả mọi vùng miền, khu vực. "Địa phương" cần được coi như một dự án phát triển, mà qua những hệ qui chiếu như phạm trù đối lập hoặc khái niệm chung như bản sắc địa phương (tiểu quốc), người nghiên cứu có thể thông hiểu, nắm bắt kiến thức cơ sở để vẽ bản đồ địa hình cho không gian tư duy và xã hội thực tại, cũng giống như phương pháp và công việc của người khảo sát địa chất hay thổ nhưỡng trong không gian địa lý. Bản đồ có thể phác thảo hay chi tiết, phổ thông hay chức năng, cũng như địa hình cũng thường xuyên thay đổi, nhất là trong tư duy hay quan hệ xã hội.

So sánh, đối chiếu

Nghiên cứu địa phương, đặc biệt là làng xã, vốn phổ biến trở lại ở Việt Nam trong vòng 20 năm qua, với nhiều đóng góp từ các nghiên cứu từ nước ngoài, như khảo sát nhiều ngành của Nhật Bản ở Bách Cốc. Tuy nhiên, đúng như GS Phan Huy Lê (2006) đã nhận xét, các nghiên cứu này tiếp nối truyền thống khảo cứu và góc nhìn cổ điển từ thời Pháp thuộc, tức là tập trung phân tích các mối quan hệ xã hội thực tại như đã được trình bày trong phần đầu của bài viết này. Không gian tâm linh cũng là đề tài rất được quan tâm hiện nay trong các nghiên cứu từ Úc và trường phái nhân-sử học Hoa Kỳ đối với Việt Nam mà hiện dẫn đầu là GS Philip Taylor (2007), nhưng đa số các khảo sát vẫn tập trung vào phần vật thể hóa của các biểu tượng văn hóa. Tuy vậy, vẫn có một số rất ít khảo sát từ phương Tây chú ý đến tư duy thuần túy trong không gian tâm linh như nghiên cứu của GS Shaun Malarney (2002) ở Thịnh Liệt
[8], hay khảo sát của GS Kwon Hoenik (2008) ở vùng Quảng Nam, Đà Nẵng và Quảng Ngãi[9]. Khu vực này hoàn toàn thiếu vắng trong các nghiên cứu tại Việt Nam, vốn yếu về hệ thống lý thuyết và lịch sử tư duy[10].

Áp dụng các trình bày đã được giới thiệu trong bài viết này, kèm theo hệ thống chỉ dẫn đến các tài liệu chuyên sâu và nâng cao, hi vọng người làm khoa học tại Việt Nam nay có thể phác thảo một hệ thống lý thuyết cơ sở để khảo sát không gian tư duy (tâm linh, biểu tượng văn hóa) tại khu vực đang là đối tượng nghiên cứu của mình. Như đã nhắc từ đầu, hệ thống lý thuyết này không phải là mô hình mà nhà nghiên cứu buộc phải áp dụng, mà chỉ là một hệ thống tư duy giúp nhà nghiên cứu tự xác định bản thân và phát triển phương pháp nghiên cứu phù hợp. Mỗi ngành học và mỗi bản thân từ cơ sở văn hóa và giới tính riêng thường có cách "vẽ bản đồ" khác nhau, mối quan tâm tìm hiểu khác nhau đối với cùng một khu vực đang là đối tượng. Ví dụ chuyên gia Hán - Nôm thích tiếp cận văn bản và chữ viết cổ có thể tìm hiểu thái độ tâm linh của người dân trong làng đối với "chữ cổ" và vị trí của chữ trong trật tự tâm linh của cộng đồng và lân cận. Cán bộ phong trào có thể áp dụng phương pháp quan sát tham gia của nhân học đời thường mà tìm hiểu tiến trình lịch sử của tư duy làng xã - vùng miền xuyên suốt theo các giai đoạn "xâm nhập" của văn hóa bên ngoài, từ hệ tư tưởng được trung ương phổ biến lẫn những triết học đời thường được thu nhận từ phim bộ các nước. Chuyên gia văn hóa và nhân học có thể phát triển hệ tọa độ văn hóa (Trần Ngọc Thêm 2001) để nâng cao khảo sát văn hóa ứng xử trong môi trường văn hóa. Sử gia hoặc người viết sử a-ma-tơ địa phương sẽ xét lại quan niệm tuyến tính về thời gian và cân nhắc khả năng sắp xếp dữ liệu theo trục không gian tư duy chẳng hạn. Thừa hưởng tư duy Mác-xít từ hệ thống giáo dục phổ thông, người nghiên cứu từ nhiều ngành khác nhau ở Việt Nam dễ dàng xây dựng hệ qui chiếu đối lập qua các cặp phạm trù mâu thuẫn, là tư duy đang thuộc loại phổ biến trong ngành xã hội - nhân văn trên thế giới (Lê Thanh Hải 2008b). Lối tiếp cận theo kiểu vẽ bản đồ cũng giúp bổ sung cho những giới hạn của phương pháp khu vực học đang được triển khai tại một số trung tâm nghiên cứu phát triển Việt Nam (Lê Thanh Hải 2009a).

"Tiểu quốc" cũng không phải là khái niệm xa lạ tại Việt Nam, chỉ có điều chưa ai hệ thống hóa khái niệm "quê hương" của người Việt Nam cho ngành khoa học xã hội-nhân văn mà thôi. Quê hương có thể hiểu là một ngôi làng, một tỉnh, một miền cho đến một quốc gia. Quê hương có thể được vật thể hóa như "chùm khế ngọt", huyền thoại hóa qua ngữ văn như "đường đi học", hay được đặt vị trí duy nhất trong tâm linh "như là chỉ một mẹ thôi" và là nơi mỗi người phải đi qua trong bản đồ tư duy để "lớn nổi thành người" (ý thơ Đỗ Trung Quân). Quê hương nối kết tất cả mọi ngành, mọi nhóm quyền lợi, tầng lớp và từng cá nhân. Các qui luật về tư duy về "quê hương" nếu được nắm bắt chắc chắn sẽ là chìa khóa quan trọng cho phát triển khu vực. Hiểu được tư tưởng đồng hương trong hệ giá trị và chọn lựa của mỗi cá nhân trong bầu cử hay ê-kíp làm việc sẽ giúp doanh nghiệp xác định chiến lược đầu tư (ví dụ như câu lạc bộ bóng đá, tập đoàn chế biến thực phẩm) hay mạng lưới phân phối hàng hóa (mà phong trào người Việt dùng hàng nội hiện đang là câu hỏi trên báo chí và dư luận).



Tham khảo:

Kurczewska, Joanna 2006, [Tư tưởng nghiên cứu địa phương. Các sơ đồ cũ và mới] Robocze Ideologie Lokalnosci. Stare i Nowe Schematy, trong tập sách do Joanna Kurczewska chủ biên 2006, Oblicza Lokalnosci. Tradycja i wspolczesnosc, IFiS PAN, trang 88-129.

Lê Thanh Hải 2008a, Chủ nghĩa cộng đồng, http://bansacdantocvietnam.blogspot.com/2008/10/ch-ngha-cng-ng-communitarianism.html

Lê Thanh Hải 2008b, Chủ nghĩa Mác đương đại, http://bansacdantocvietnam.blogspot.com/2008/10/ch-ngha-mc-ng-i.html

Lê Thanh Hải 2009a, Việt Nam 2008: Chuyển dịch trong não trạng xã hội - nhân văn, hội thảo Hè Paris 26-28.8.2009 http://bansacdantocvietnam.blogspot.com/2009/09/vietnam-2008.html

Lê Thanh Hải 2009b, Minh triết và Phát triển, hội thảo Minh triết tại Hà Nội 22.9.2009

Phan Huy Lê 2006, [Nghiên cứu Làng Việt Nam - đánh giá cá các góc nhìn] Research on the Vietnamese Village - Assessment and Perspectives, trong Trần Tuyết Nhung & Anthony Reid 2006, Vietnam: Borderless Histories, Unversity of Wiscosin Press

Taylor, Philip 2007, [Hiện đại và phục hồi tín ngưỡng: tôn giáo ở Việt Nam hậu cách mạng] Modernity and re-enchantment: religion in post-revolutionary Vietnam, ISAS

Malarney, Shaun 2002, [Văn hóa, tín ngưỡng và cách mạng ở Việt Nam] Culture, ritual and revolution in Vietnam, University of Hawaii Press

Kwon Heon-ik 2008, [Hồn ma cuộc chiến ở Việt Nam] Ghosts of War in Vietnam, Cambridge University Press

Trần Ngoc Thêm 2001, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB tp.HCM

Nguyễn Khoa Điềm chủ biên 2001, Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, NXB CTQG

Fukuyama, Francis 1999, [Vốn xã hội và Xã hội dân sự] Social Capital and Civil Society, IMF Conference on Second Generation Reforms, bản điện tử ở địa chỉ http://www.imf.org/external/pubs/ft/seminar/1999/reforms/fukuyama.htm

Putnam, Robert D. 2004, Democracies in flux: the evolution of social capital in contemporary society, Oxford University Press

Walzer, Michael 1983, Spheres of Justice: A Defense of Pluralism and Equality, Barnes&Nobel, New York.

Giáp Văn Dương 2009a, Việt Nam 2008: 10 bài toán lớn, hội thảo Hè, Paris 26-28.8.2009
Giáp Văn Dương 2009b, Minh Triết và Hạ Tầng Tư Duy, hội thảo Minh triết Việt, Hà Nội 22.9.2009

Godlewski, Grzegorz chủ biên 2002, [Khắc họa văn hóa - Kinh nghiệm và Tương lai] Animacja Kultury - Doswiadczanie i Przyszlosc, IKP UW

Bauman, Zygmunt 1995, [Nhiều nghĩa thời hiện đại, thời hiện đại nhiều nghĩa] Wieloznacznosc nowoczesna, nowoczesnosc wieloznaczna, PWN tr.260-325

Sulima, Roch 2001, [Tiếng nói của truyền thống] Glosy tradycji, DiG Warszawa
[1] GS TSKH Joanna Kurczewska là viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Ba Lan, phân viện trưởng phân viện Xã hội học lý thuyết, đồng thời là giám đốc Trung tâm nghiên cứu các thay đổi xã hội và truyền thống, cũng là tổng biên tập tạp chí khoa học tiếng Anh Polish sociological review.

ThS Lê Thanh Hải là cộng tác viên khoa học của Khoa triết và xã hội học, thuộc Viện hàn lâm khoa học Ba Lan, đồng thời cũng là biên tập viên khoa học của BBC World Service và thành viên nhóm nghiên cứu dân tộc và quốc gia ASEN tại Đại học kinh tế London (LSE).

Địa chỉ liên lạc:
Institute Philosophy and Sociology
Polish Academy of Science
72, Nowy Swiat, p.139
Warszawa, Poland
tel. +4822-6572-898
mobile. +44-7854-920-023
email: thanhai@wp.pl,
[2] Độc giả có thể truy cập nhanh về ngành nghiên cứu mới phát triển từ cuối thế kỷ 20 qua giải thích nhanh trên Wikipedia tiếng Việt (vi.wikipedia.org) về Chủ nghĩa cộng đồng do chính tác giả bài viết này biên soạn, có đầy đủ các đường dẫn đến những bài viết cần tham khảo trên mạng, hoặc tìm đọc bài viết đầy đủ của tác giả trên trang nhà bansacdantocvietnam.blogspot.com
[3] Một trong số những học giả hàng đầu về "cộng đồng tưởng tượng" là Benedict Anderson từng viết quyển sách cùng tên Imagined Communities xuất bản năm 1983, dựa khá nhiều trên các phân tích lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ 20. Quí vị có thể đọc bài giới thiệu cũng do tác giả bài viết này biên soạn trên trang BBC tiếng Việt ở địa chỉ: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2005/03/050322_anderson_nationalism.shtml
[4] Mô hình xã hội học thế kỷ 19 thường phân biệt bằng hai khái niệm tiếng Đức Gesellschaft và Gemeinschaft, tức là nguyên tắc gắn liền với vùng đất địa lý và mối quan hệ xã hội.
[5] Người nghiên cứu cũng có khi sẽ muốn chọn khảo sát thời gian theo trục không gian, hoặc xét không gian theo trục thời gian.
[6] Một trong số những diễn giải về hạ tầng tư duy được Giáp Văn Dương (2009a,b) xây dựng, có thể tìm hiểu trên blog của anh ở địa chỉ http://www.giapvan.net. Theo đó “hạ tầng tư duy là toàn bộ những gì góp phần khai mở, hỗ trợ, giải phóng và phát huy khả năng tư duy của cá nhân và cộng đồng. Cấu trúc của hạ tầng tư duy gồm sáu yếu tố chính: Thành tựu tư tưởng của nhân loại (TTNL); Hệ tư tưởng, quan điểm sử dụng hiện thời (HTT-QĐ); Cơ chế pháp lý hỗ trợ (CCPL); Thói quen, kĩ năng tư duy cá nhân (TQ-KN);Văn hóa, môi trường làm việc (VH-MT); Liên thông, trao đổi tư tưởng (LT-TĐ)” (Tuần Việt Nam 10-11.8.2009, vietnamnet.vn)
[7] Tác giả bài viết này đã chuẩn bị sẵn mục giải nghĩa trên Wikipedia tiếng Việt (vi.wikipedia.org) dưới tên gọi Cá nhân luận. Phương pháp luận này được xây dựng trên cơ sở một nhánh triết học muốn giải thích và hiểu các phát triển xã hội như là một tập hợp của các quyết định và hành động của các cá nhân, còn có thể được hiểu như là phương pháp giản lược - reductionism, hiện được áp dụng nhiều cả trong ngành xã hội lẫn kinh tế học. GS Kurczewska cũng có bàn đến nhân sinh quan cá nhân trong nghiên cứu dân tộc: (1999) [Khái niệm dân tộc] Naród, trong [Bách khoa toàn thư xã hội học] Encyklopedia Socjologii, Ofycyna Naukowa, Warszawa, bản lược dịch của tác giả bài viết được lưu trên mạng ở địa chỉ: http://bansacdantocvietnam.blogspot.com/2009/01/nhan-sinh-quan-ca-nhan-trong-nghien-cuu.html
[8] Có thể đọc thêm bài điểm sách của tác giả bài viết này ở trang mạng http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/08/080828_shaun_malarney.shtml
[9] Có thể đọc thêm bài điểm sách của tác giả bài viết này ở trang mạng http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/09/080908_kwon_heonik.shtml
[10] Ví dụ nổi bật nhất là giải thưởng Trần Văn Giàu cho lịch sử tư tưởng thiếu người được trao tặng bốn năm liền với giải thích từ thường trực ủy ban giải thưởng GS Nguyễn Văn Lịch (TTVH 13-14.9.2009) http://www.thethaovanhoa.vn/133N2009091310430890T0/giai-thuong-tran-van-giau-bai-1-ngay-cang-it-tac-pham-tham-gia-vi-qua-kho.htm, http://www.thethaovanhoa.vn/133N20090914100324302T0/giai-thuong-tran-van-giau-bai-2-vi-sao-chua-co-giai-lich-su-tu-tuong.htm

Monday, September 21, 2009

Chu nghia dan toc

Chủ nghĩa dân tộc - Một tiến trình lịch sử của văn hóa
Lê Hải[1]

Chữ tiếng Anh nationalism có thể dịch sang tiếng Việt là "chủ nghĩa dân tộc" theo cách hiểu thiên về chính trị, hoặc "tư tưởng dân tộc" nếu xét từ góc độ học thuật và tiến trình văn hóa, như nền của bài viết này. Thế nhưng, ngay từ đầu cách dịch đó đã có vấn đề vì chắc chắn nhiều độc giả muốn thay chữ "dân tộc" bằng chữ "quốc gia" - chữ cũng sẽ được dùng song song, không chỉ riêng vì lý do dịch thuật hay ngữ nghĩa, nội dung. Về cơ bản, trong tiếng Anh và nhiều ngôn ngữ châu Âu, kết cấu -ism khi nối tiếp vào đuôi một từ gốc sẽ tạo ra từ mới với nghĩa là một chủ nghĩa, một trào lưu hay một hệ tư tưởng, một lối tư duy nào đó mới được đặt tên[2]. Thêm vào đó, từ gốc nation có thể hiểu/dịch theo nhiều kiểu khác nhau, như một dân tộc, một quốc gia, hay một nguồn gốc, một phát sinh như bắt đầu từ chữ Latin natio hay nascere. Đó là chưa kể cách dùng tạm, không tập trung nhiều vào ngữ nghĩa như trong bài viết này, mượn chữ thường gặp nhất - "chủ nghĩa dân tộc" - để diễn tả nhiều khái niệm và cách hiểu khác nhau, và cùng lúc cũng dùng các biến thể khác nhau của nó để chỉ có khi là cùng một khái niệm và cách hiểu đơn lẻ. Từ ngữ là thành phần cơ bản của ngôn ngữ - sản phẩm thường gặp nhất của văn hóa, cho nên bản thân cũng là một biến số của lịch sử, mà những khái niệm khác nhau của chủ nghĩa dân tộc cũng chính là những dấu vết lịch sử của quá trình tiến hóa đó, cả trong phạm vi một giai đoạn, một quốc gia lẫn mở rộng ra cả thế giới và lịch sử loài người. Theo cách hiểu hậu hiện đại thì nó cũng chính là lịch sử một giai đoạn tìm kiếm và trưởng thành của chính người viết bài này, có thể tạm coi là những thông hiểu (understanding) đã chắt lọc và tích lũy lại được sau hơn mười năm tìm hiểu và nghiên cứu. Tìm hiểu để định nghĩa khái niệm chủ nghĩa dân tộc cũng là một cách để trả lời câu hỏi Ta-là-was, trong bối cảnh bản sắc đang là đề tài được quan tâm hàng đầu trong trào lưu deconstructionism của thời hậu hiện đại rồi đến reconstructionism của thời sau hậu hiện đại.

Khai sinh hay vốn có?

Trong học thuật, các hệ tư tưởng đương đại về dân tộc và chủ nghĩa dân tộc hầu hết được tái xây dựng từ những công trình nghiên cứu được xuất bản vào đầu thập niên 1980, mà ba đầu sách cùng xuất hiện năm 1983 của Ernest Gellner, Eric Hobsbawm và Benedict Anderson[3] thường được trích dẫn nhất. Từ đó đến nay, bên cạnh hàng chục đầu sách quan trọng là hai tạp chí đầu ngành, cùng do đại học LSE xuất bản từ 1995: Nations and Nationalism và Studies in Ethnicity and Nationalism. Có thể coi hai tạp chí này là đại diện cho hai hướng tiếp cận mâu thuẫn nhau về vấn đề dân tộc, mà Samuel Huntington (2005:29) từng thử khái quát: dân sự và sắc tộc, chính trị và văn hóa, cách mạng và bộ lạc, tự do và hội nhập, hiệp hội đi kèm với chọn lựa và thần thánh đi cùng với tự nhiên, dân sự-lãnh thổ và sắc tộc-gia đình, hay yêu nước và chủ nghĩa dân tộc.

Nổi bật nhất trong các cuộc tranh luận giữa các chuyên gia trong ngành có lẽ là câu hỏi "dân tộc có cuống rốn hay không?"[4] mà Ernert Gellner và Anthony Smith đã đặt ra vào năm 1995 tại đại học Warwick. Mặc dù đồng ý với thầy mình rằng chủ nghĩa dân tộc là một hiện tượng - quá trình tư tưởng dựa trên một thực tế xã hội là dân tộc - của thời hiện đại, Smith (1995) không đồng ý với quan điểm quá hiện đại của Gellner (1995) - coi dân tộc là sản phẩm (phụ) của quá trình hiện đại hóa, mà cho rằng cũng nên cân nhắc các yếu tố nền tảng như văn hóa sắc tộc và biểu tượng, vì đó mới chính là yếu tố giúp tư tưởng dân tộc duy trì và tiếp tục đang là một quyền lực đáng kể trong xã hội toàn cầu hóa, xóa nhòa ranh giới quốc gia như hiện nay.

Tâm điểm của cuộc tranh cãi vừa kể cũng là ranh giới giữa hai nhóm tư tưởng mà một bên - làm khai sinh cho dân tộc trong thời hiện đại - là phe hiện đại (modernism), còn bên kia cho rằng dân tộc vốn đã có sẵn (primordialism) hoặc tồn tại từ rất lâu đời (perenialism), các thay đổi gần đây chẳng qua chỉ là tiếp biến. Mâu thuẫn vừa nêu cũng lộ ra và bùng nổ trong phần bình luận bài điểm sách trên BBC tiếng Việt (22.III.2005) về một phân tích của Benedict Anderson (1983), cho rằng nền giáo dục Pháp đã phần nào kéo theo sự "khai sinh"[5] của dân tộc Việt Nam, mà đa phần các ý kiến phản đối đều thể hiện lối tư duy phản hiện đại[6]. Anderson đã làm một điều rất liều lĩnh là áp dụng tư duy "hiện đại" cho một nước hậu thuộc địa, nơi vốn thường được dùng để chứng minh cho các lập luận ngược lại. Clifford Geertz (1973, theo Smith 1998:151-155) từng xác nhận rằng ở những nơi đó dân chúng được kết nối với nhau không phải bằng các mối quan hệ dân sự như kiểu ở phương Tây hiện đại mà là qua các mối quan hệ nguyên thủy như ngôn ngữ, phong tục, sắc tộc, tôn giáo và những loại hình văn hóa khác. Với những xã hội chưa bị xáo trộn do di dân hay kết hôn với người (nước) ngoài thì Pierre van den Berghe (1978, theo Smith 1998:146-151) thậm chí còn nhìn thấy cơ chế vận hành xã hội như một đại gia đình thông qua quan hệ bà con, nâng đỡ ê-kíp và cưỡng chế bè phái. Cũng cần chú ý rằng hai học giả vừa nêu đều là chuyên gia trong ngành nhân học về sắc tộc (ethnic), phát triển từ các nghiên cứu điền dã của nhân chủng học, tác động vào các tranh luận của xã hội học và sử học về dân tộc (nation), một quá trình đang lặp lại trong các ngành xã hội và nhân văn hiện nay tại Việt Nam, khi cả hai khái niệm ethnic và nation đều được coi/dịch là dân tộc.

Quốc gia và biện chứng lịch sử

Giới học giả từ miền Nam[7] Việt Nam thường dịch nation thành quốc gia, theo cách hiểu thiên về nhà nước[8] (state) của khái niệm này. Điều kiện phải có tổ quốc để sinh sống và hướng về, hay hướng đến một thể chế nhà nước là điều kiện để một hoặc một nhóm sắc tộc được coi là dân tộc đã nhấn mạnh đến vai trò của lịch sử. Nếu nhìn lại tiến trình lịch sử tư tưởng châu Âu chúng ta sẽ thấy các hệ tư duy mang hơi hướng chủ nghĩa quốc gia bắt đầu xuất hiện vào khoảng đầu thế kỷ 19 (Kedourie 1994) và được coi là một trong bốn hệ tư tưởng lớn kể từ sau ngày cách mạng Pháp, bên cạnh chủ nghĩa bảo thủ, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa xã hội (Szacki 2003:169). Những từ như nation và patrie xuất hiện trong các ngôn ngữ châu Âu từ giữa thế kỷ 18 (Huntington 2005:29). Cho rằng hiếm có quốc gia nào hiện diện từ trước nửa sau của thế kỷ 19, Walker Connor (1994, theo Smith 1998:159-165) nhận thấy các lãnh đạo mang thiên hướng dân tộc - từ Hitler và Mussolini cho đến Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh - đều nhắc đến dòng máu và gia đình để động viên những người cùng dân tộc (đồng bào - người cùng bào thai), cùng tổ tiên (tổ quốc - đất nước của tổ tông), hay cùng quan hệ gia đình mở rộng (quốc gia - đất nước của gia đình) sẵn sàng hi sinh trong những hoàn cảnh mà nếu suy tính theo logic và lẽ thường họ sẽ không bao giờ chịu chết như vậy.

Nhìn lịch sử từ quan điểm duy vật biện chứng, Anthony Giddens (1985) coi xã hội hiện đại là những quốc gia - dân tộc tồn tại trong một hệ thống các quốc gia - dân tộc như một thể chế kiểm soát quyền lực vũ trang, phát triển từ các nhà nước phong kiến chuyên chế (absolutism), thông qua quá trình công nghiệp hóa và tư bản hóa. Cũng là một nhà lý luận Mác-xít đương đại (Lê Hải 2008a, 2008b), Eric Hobsbawm (1983, 1992) nhìn thấy những gì được gọi là truyền thống, phong tục, tập quán quốc gia thực ra được người ta tạo ra (invented tradition) trong quá trình vận động xây dựng ý thức dân tộc. Ernest Gellner (1993, 1997) nhìn thấy văn hóa từ thượng tầng kiến trúc qua giáo dục mà lan tỏa và phổ biến, còn Benedict Anderson (1993) thì đánh giá cao ảnh hưởng của in ấn và báo chí lên tư duy mang kết cấu kể chuyện của con người hiện đại. Nhiều qui luật lịch sử của con đường hình thành dân tộc - quốc gia được phát hiện bổ sung, từ quá trình vẽ bản đồ (Winichakul 1994), cách mạng (Tilly 1993), cách mạng giai cấp (Tonnesson 1998), kháng chiến (Hobsbawm 1998, SarDesai 1992), thế tục hóa (Greenfeld 2004), tranh luận xã hội (Hall 1984, 1996), hội nhập (Birch 1989), hay thậm chí bất ngờ (Wilson 2002), vớ vẩn (Billig 1995) và ảo (Eriksen 2006).

Từ cá tính đến bản sắc

Đa số các qui luật lịch sử như vừa kể được phát hiện và trình bày thông qua phương pháp duy vật biện chứng, nhưng chính Mác và Angel lại nhìn vấn đề dân tộc qua lớp sương mù (James 1997), còn các nhà lý luận cộng sản không nhắc gì đến hoặc thậm chí còn tuyên bố cáo chung cho dân tộc trong Quốc tế hai. Mặc dù Stalin (1913) có đặt ra Câu hỏi về dân tộc tại Quốc tế ba và vấn đề này phần nào trở thành điểm khác biệt - ít nhất là về lý luận - giữa họ và Đệ Tứ hay Trốt-kít, lý luận về dân tộc tại các nước cộng sản vẫn thường là điểm yếu hoặc không đậm nét như vừa trình bày ở các nước phương Tây. Thời kỳ đầu trong chính sách của đảng cộng sản Việt Nam chưa có tham vọng đưa ra chủ trương xây dựng văn hóa xã hội chủ nghĩa và con người Xô-viết như sau này, mà chỉ chú trọng "tân dân chủ với hình thức phù hợp với dân tộc" (Trường Chinh 1943), cũng không đặt nặng chủ trương dân tộc đến mức như "yêu tổ quốc, yêu đồng bào" (chủ nghĩa dân tộc quốc gia), xây dựng con người đạo đức như các điều dạy của Hồ Chí Minh đối với thiếu nhi, quân đội, công an và cán bộ. Đó cũng chính là mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa dân tộc cộng sản của Việt Nam (Lữ Phương 1998).

Thiếu vắng một hệ thống lý luận khoa học bậc cao về dân tộc và những vấn đề liên quan, các nghiên cứu cả không chuyên lẫn hàn lâm của Việt Nam đều tự do phát triển ngoài vùng thẩm định. Họ tìm về nguồn cội sắc tộc (Hà Văn Thùy 2007), lãnh thổ (Trương Thái Du 2007), cộng đồng (Dohamide và Dorohiêm 2004), gốc tư tưởng (Phạm Tường và Việt Hoàng 2006, Hữu Thọ 2000), ngôn ngữ (Cao Xuân Hạo 2003), bài học vỡ lòng (Trần Văn Chi 2005), cổ nhạc hay Phật giáo (Lê Mạnh Thát 2001), căn cước (Nam Phan 2008) hay cẩn thận hơn thì sắp xếp, phân chia loại hình (Trần Ngọc Thêm 2001), vùng miền (Trần Quốc Vượng 2002), hay thể nghiệm bản sắc (Nguyễn Khoa Điềm 2001). Một lần nữa, cũng như các trào lưu trước, biến chuyển về khái niệm/nhận thức dân tộc ở Việt Nam nằm trong vùng ảnh hưởng của khu vực, khi châu Á đang chuyển đổi từ tư duy dân tộc phát triển sang tư tưởng dân tộc văn hóa (Lương Văn Hy 2007), còn ASEAN thì đang xây dựng chủ nghĩa khu vực (Sutherland 2008). Nhìn rộng ra thì tiến trình lịch sử trong vòng 100 năm qua của chủ nghĩa dân tộc - quốc gia ở Việt Nam đã đi từ thiên hướng cá tính nhân chủng (Trần Trọng Kim 1919) hay hữu cơ tân-Darwin sang đến bản sắc[9] (identity) trong không gian học thuật lịch sử hậu Fukuyama (Lê Hải 2008c), hậu Mác-xít, trong lúc các hệ tư duy trước vẫn được duy trì hoặc tiếp tục du nhập (Houben 2008, Anesaki 2008). Nhiều nghiên cứu Việt Nam từ nước ngoài bỏ qua hoặc tránh động đến tâm điểm/định nghĩa của vấn đề dân tộc, chỉ đề cập đến những mảng nhỏ từ nhiều góc và phương pháp tiếp cận khác nhau: mỹ thuật (Nora Taylor 2004), văn hóa chính trị (Marr 2004), cộng đồng hải ngoại (Ngô Sĩ Long 2008), ký ức (Hồ Tài Huệ Tâm 2001), tôn giáo thời hiện đại (Philip Taylor ed. 2007, Fielstad và Nguyễn Thị Hiền ed. 2006), không gian tôn giáo cục bộ (Đỗ Thiện 2003, Kwon 2008, Malarney 2002), địa phương làng xã (Kleinen 1999, Koh 2006). Tuy nhiên, hiện có dự án Vietnam Update do giáo sư Philip Taylor chủ trì ở Đại học quốc gia Úc đang ngày càng tiếp cận thêm nhiều mảng đề tài sau mỗi năm nghiên cứu và hội thảo báo cáo, tiến dần đến một cái nhìn đầy đủ về bản chất Việt Nam, mà chủ đề được quan tâm trong năm nay là bản sắc liên quan đến di dân, cả nội địa lẫn ra nước ngoài.

Kết luận

Dân tộc/quốc gia là vấn đề mà bất cứ học giả hàng đầu nào trong ngành xã hội và nhân văn đều phải đề cập tới, nếu không phải là một đầu sách hay một hệ tư tưởng tiếp cận thì cũng là một essay khảo sát. Thế nhưng ngành học này không có được một hệ tư tưởng chủ đạo, khiến cho mọi bộ giáo trình dù đơn giản nhất cũng phải hợp đủ hàng chục đầu sách từ đủ mọi hướng tiếp cận khác nhau, và sinh viên hay người nghiên cứu lần đầu tiên bước chân vào đây phải tự tìm đọc đủ mọi quan điểm đang phổ biến trên các diễn đàn tranh luận nổi bật, để rồi cuối cùng không biết phải chọn hệ thống nào, hoặc phải tự mình chọn lựa và tích lũy các thành phần khác nhau rồi dồn sức xây dựng một hệ thống liên ngành riêng. Hệ thống đó không chỉ cần phải phù hợp với điều kiện và thực địa nghiên cứu, mà còn với cả chính bản thân người nghiên cứu - một phát hiện có thể coi là đóng góp của ngành nhân học hiện đại trong bối cảnh lịch sử đang phải vượt qua dấu chấm hết (Fukuyama 1992), còn xã hội học đang phải đi xuống tầm vi mô của các cộng đồng (Etzioni 2000, Putnam 2000, Lê Hải 2008d) và ảnh hưởng nhiều từ tâm lý học. Cá nhân luận (methodological individualism) với khả năng dung hòa tất cả các điều kiện trên hứa hẹn sẽ là giải pháp khoa học phù hợp cho các nghiên cứu dân tộc/quốc gia hiện nay. Nhưng đó lại là đề tài cho một bài viết tiếp theo mất rồi. Tuy nhiên, có thể thấy hiện tại một số blogger trên Talawas đã bắt đầu thử tiếp cận vấn đề theo hướng đó, có thể trực tiếp như Tôi Là Người Việt Nam của Đỗ Kh., như Xóm Nhà Lá của Phan Xuân Sinh, Tôi Là Ai của Bùi Văn Phú, Trần Mộng Tú, hay gián tiếp như hầu hết tất cả các blogger còn lại. Từ những tự sự nhìn lại (retrospective) chúng ta có thể xây dựng thành một hệ thống lý thuyết khoa học liên chủ quan (inter-subjective) về dân tộc Việt Nam, tức về chính bản thân mình trong các chiều của xã hội mình: thời gian - không gian, cá nhân - gia đình - địa phương - vùng miền - dân tộc - khu vực - thế giới, quá khứ - tương lai, vùng biên, chuyển đổi...


Tham khảo:

Anderson, Benedict [1983] 2002, [Những cộng đồng tưởng tượng: những suy tư về nguồn gốc và sự phát tán của chủ nghĩa dân tộc, tái bản có sửa chữa] Imagined communities: reflections on the origin and spread of nationalism, -rev. ed., Verso

Anesaki, Masahira 2008, [Quá trình tạo thành cá tính dân tộc: Vài so sánh giữa Nhật Bản và Việt Nam], tham luận tại Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần 3, 5-7.XII.2008 tại Hà Nội.

Billig, Michael 1995, [Chủ nghĩa dân tộc vớ vẩn] Banal Nationalism, Sage

Birch, Anthony H. 1989, [Chủ nghĩa dân tộc và hội nhập dân tộc] Nationalism and national integration, Unwin Hyman

Cao Xuân Hạo 2003, Tiếng Việt - Văn Việt - Người Việt, NXB Trẻ

Donamide và Dorohiêm 2004, Bangsa Champa - Tìm về với một cội nguồn cách xa, Seacaef & Viet foundation, California

Đỗ Thiện 2003, [Siêu nhiên ở Việt Nam: Những góc nhìn từ miền Nam] Vietnamese Supernaturalism: Views from the South, Routledge

Eriksen, Thomas Hylland 2006, [Các dân tộc trong thế giới ảo] Nations in cyberspace, bài giảng Gellner năm 2006 tại LSE

Etzioni, Amitai 2000, [Một dân tộc của các nhóm thiểu số?] A Nation of Minorities?, The Responsive Community vol.10 issue 1 WInter 1999/2000

Fjelstad, Karen và Nguyễn Thị Hiền chủ biên 2006, [Nhập đồng: gọi hồn ở các cộng đồng Việt Nam đương đại, SEAP Cornell University

Fukuyama, Francis 1992, [Sự kết thúc của Lịch sử và Người cuối cùng] The End of History and the Last Man, Free Press

Geertz, Clifford 1973, [Diễn giải của Văn hóa, Tập hợp bài viết] The interpretation of Cultures, Selected Essays, University of Michigan, Basic Book

Gellner, Ernest [1983] 1993, [Các dân tộc và chủ nghĩa dân tộc] Nations and nationalism, Blackwell

Gellner, Ernest 1995, [Các dân tộc có cuống rốn hay không?] Do nations have navels? trong Smith, Anthony D. & Ernest Gellner 1995, [Cuộc tranh luận ở đại học Warwick] The Warwick Debates 24.X.1995

Gellner, Ernest 1997 [Tư tưởng dân tộc] Nationalism, Weidenfeld&Nicolson

Giddens, Anthony 1985, [Dân tộc - Quốc gia và Bạo lực] The Nation-State and Violence, Polity Press

Greenfeld, Liah 2004 [Chủ nghĩa dân tộc và não trạng] Nationalism and the Mind, Bài giảng thường niên mang tên Gellner tại London School of Economics 22.IV.2004, in lại trong tạp chí Nations and Nationalism 11.3 (July 2005):325-341

Hà Văn Thùy 2007, Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt, NXB Văn Học, các bài viết của Hà Văn Thùy có thể đọc trên mạng ở địa chỉ http://anviettoancau.net/anviettc/index.php?option=com_content&task=contentbyauthor&author=HaVanThuy&name=H%C3%A0+V%C4%83n+Th%C3%B9y

Hall, Stuart 1996, [Ý nghĩa, Đại diện, Tư tưởng: Althusser và các cuộc Tranh luận Hậu Cấu trúc] Signification, Representation, Ideology: Althusser and the Post-Structuralist Debates, trong tập sách của James Curran ed. 1996, Cultural studies and communications, Arnold

Hall, Stuart chủ biên [1980] 1984 [Văn hóa, truyền thông, ngôn ngữ] Culture, media, language, Hutchinson

Hobsbawm, Eric J. [1990] 1992, [Các dân tộc và chủ nghĩa dân tộc từ 1780: chương trình, truyền thuyết, thực tại] Nations and nationalism since 1780: programme, myth, reality, Cambridge University Press

Hobsbawm, Eric J. biên tập [1983] 1984, [Truyền thống được tạo dựng] The invention of tradition, Cambridge University Press.

Hobsbawm, Eric J. 1998, [Những con người không thường gặp - Kháng chiến, Phiến quân và Jazz] Uncommon People - Resistance, Rebellion and Jazz, Orion

Hồ Tài Huệ Tâm 2001, [Đất nước của ký ức: Tái dựng quá khứ ở giai đoạn sau của Việt Nam thời xã hội chủ nghĩa] The Country of Memory: Remaking of the Past in late Socialist Vietnam, University of California Press

Houben, Vincentius Johannes Hubertus 2008, [Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á: Tình thế và những so sánh] Vietnam in the context of Southeast Asia. Conjunctures and Comparisons, phát biểu khai mạc Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần 3, 5-7.XII.2008 tại Hà Nội

Hungtington, Samuel 2005, [Chúng ta là Ai? Những Thách thức của Bản sắc Dân tộc Hoa Kỳ], Who are we? - The Challenges to America's National Identity, Simon&Schuster

Hữu Thọ chủ biên 2000, Hồ Chí Minh - Về công tác tư tưởng văn hóa, NXB Chính trị quốc gia

Ichijo, Atsuko & Gordana Uzelac ed. 2005, When is the nation?: towards an understanding of theories of nationalism, Routledge

James, Paul 1997, [Sự hình thành của Dân tộc - Tìm về một Lý thuyết cho Cộng đồng Trừu tượng] Nation Formation - Towards a Theory of Abstract Community, SAGE

Kedourie, Elie 1994 [Dân chủ và văn hóa chính trị Ả Rập] Democracy and Arab political culture, Frank Cass

Kleinen, John 1999 [Đối diện tương lai, hồi sinh quá khứ: nghiên cứu biến đổi xã hội ở một làng Bắc Việt Nam] Facing the future, reviving the past: a study of social change in a Northern Vietnamese village, ISAS, bản tiếng Việt do NXB Đà Nẵng xuất bản năm 2007

Koh, David W.H. 2006, [Phường ở Hà Nội], Wards of Hanoi, ISAS

Kwon, Heon-ik 2008, [Hồn ma cuộc chiến ở Việt Nam] Ghosts of War in Vietnam, Cambridge University Press

Lê Hải 2008a, Chủ nghĩa Mác đương đại, talawas 13.III.2008 http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12550&rb=0306

Lê Hải (dịch) 2008b, Người cộng sản kiên định, (dịch từ buổi nói chuyện của Eric Hobsbawm 2004 Interesting Times: A Twentieth Century Life, UCLA), talawas 19.3.2008 http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12616&rb=0306

Lê Hải (dịch) 2008c, Giải nghĩa lịch sử, (dịch từ lời dẫn cho loạt sách về lịch sử sau tuyên bố chấm dứt của Fukuyama), talawas 2.XI.2008 http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=14651&rb=0302

Lê Hải 2008d, Chủ nghĩa cộng đồng, talawas 15.II.2008 http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12296&rb=0306

Lê Mạnh Thát 2001, Lịch sử âm nhạc Việt Nam - từ thời Hùng Vương đến Lý Nam Đế, NXB tp.HCM

Lữ Phương 1998, Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam, bản điện tử ở http://www.viet-studies.info/LuPhuong/LuPhuong_ChuNghiaDanTocVietNam.htm

Lương Văn Hy 2007, [Chuyển đổi cơ cấu của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam 1954-2006] The Restructuring of Vietnamese Nationalism, Pacific Affairs, University of British Columbia

Malarney, Shaun Kingsley 2002, [Văn hóa, tín ngưỡng và cách mạng ở Việt Nam] Culture, ritual and revolution in Vietnam, University of Hawaì Press

Marr, David G. 2004, [Lược sử chính quyền địa phương ở Việt Nam] A Brief History of Local Government in Vietnam, trong Benedict J. Kerkvliet và David Marr chủ biên 2004, Beyond Hanoi: local government in Vietnam, ISAS

Nam Phan 2008, Đi tìm căn cước thật của Việt Nam, Đàn Chim Việt 22.I.2008

Ngô Sĩ Long 2008, [Cộng đồng di dân Việt Nam toàn cầu] The Global Vietnamese Diaspora, bản thảo điện tử trên trang blog của ĐH Houston ở địa chỉ http://blogs.bauer.uh.edu/vietDiaspora/2008/introduction/

Nguyễn Khoa Điềm chủ biên 2001, Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, NXB Chính trị quốc gia

Phạm Tường và Việt Hoàng 2006, Nguồn cội văn hóa thần minh Đại Việt, NXB Văn Nghệ

Putnam, Robert 2000, [Chơi bowling một mình: Sự sụp đổ và phục hồi của cộng đồng Mỹ] Bowling Alone: The Collapse and Revival of American Community, Simon & Schuster, essay trước đó (1995) được lưu trên mạng ở địa chỉ http://xroads.virginia.edu/~HYPER/DETOC/assoc/bowling.html

SarDesai, D.R. 1992, [Việt Nam: Cuộc kháng chiến cho Bản sắc Dân tộc] Vietnam: The Struggle for National Identity, Westview Press

Smith, Anthony D. 1995, [Các dân tộc và quá khứ của họ] Nations and their pasts, trong Smith, Anthony D. & Ernest Gellner 1995, [Cuộc tranh luận ở đại học Warwick] The Warwick Debates 24.X.1995

Smith, Anthony D. 1998, [Chủ nghĩa dân tộc và Chủ nghĩa hiện đại] Nationalism and Modernism, Routledge

Smith, Anthony D. 2000a, [Dân tộc trong lịch sử: Các cuộc tranh luận sử-địa về dân tộc và chủ nghĩa quốc gia] The Nation in History: Historiographical Debates about Ethnicity and Nationalism, Polity Press

Smith, Anthony D. 2000b, [Các dân tộc và chủ nghĩa dân tộc trong thời đại toàn cầu] Nations and nationalism in a global era, Polity Press

Smith, Anthony D. 2009, [Chủ nghĩa sắc tộc - biểu tượng và chủ nghĩa dân tộc; Một tiếp cận văn hóa] Ethno-symbolism and Nationalism; A cultural approach, Routledge

Stalin, J.V. 1913, Marxism and the National Question, Prosveshcheniye, bản tiếng Anh trên mạng ở địa chỉ http://www.marxists.org/reference/archive/stalin/works/1913/03.htm

Sutherland, Claire 2008, [Hòa hợp giữa quốc gia và khu vực: Tiến trình xây dựng dân tộc Việt Nam và chủ nghĩa khu vực của ASEAN] Reconciling Nation and Region: Vietnamese Nation Building and ASEAN Regionalism, Political Studies 2008

Szacki, Jerzy 2003, [Lịch sử tư tưởng xã hội - Ấn bản mới] Historia mysli socjologicznej - Wydanie nowe, PWN

Taylor, Nora A. [2004] 2009, [Các họa sĩ ở Hà Nội - Một nghiên cứu dân tộc ký về mỹ thuật Việt Nam] painters in hanoi - An Ethnography of Vietnamese Art

Taylor, Philip chủ biên 2007, [Hiện đại và tái mê tín: tôn giáo ở Việt Nam sau cách mạng] Modernity and re-enchantment: religion in post-revolutionary Vietnam, ISAS

Tilly, Charles 1993, [Các cuộc cách mạng châu Âu 1492-1992] European revolutions, 1492-1992, Blackwell

Tonnesson, Stein và Hans Antlov [1996] 1998 [Các loại hình châu Á của quốc gia] Asian Forms of the Nation, Curzon

Trần Ngọc Thêm 2001, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB tp.HCM

Trần Quốc Vượng chủ biên 2002, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục

Trần Trọng Kim 1919, Việt Nam sử lược, TT học liệu bộ giáo dục

Trần Văn Chi 2005, Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư, NXB Xưa Và Nay, Canada

Trường Chinh 1943, Đề cương về Văn hóa Việt Nam, Talawas

Trương Thái Du 2007, Cổ sử Việt Nam, một cách tiếp cận vấn đề, NXB Lao Động, các bài viết của Trương Thái Du có thể đọc trên mạng ở địa chỉ http://www.vannghesongcuulong.org/vietnamese/tulieu_tacgia.asp?TGID=742&LOAIID=17&LOAIREF=5

van den Berghe, Pierre [1978, 1979] 1981 [Hiện tượng sắc tộc] The Ethnic Phenomenon, Elsevier

Vasavakul, Thaveeporn 1998, Ý thức dân tộc Việt Nam trong cách nhìn so sánh, bài viết trình bày tại Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất tại Hà Nội 15-17.VII.1998, in lại trong Phan Huy Lê chủ biên 2002, Các nhà Việt Nam học nước ngoài Viết Về Việt Nam, NXB Thế giới

Wilson, Andrew 2002, [Người Ukraina: Dân tộc bất ngờ] The Ukrainians: Unexpected Nation, Yale University Press

Winichakul, Thongchai 1994, [Siam được bản đồ hóa: Lịch sử tạo thân địa lý cho một dân tộc] Siam Mapped: A History of the Geo-body of a Nation, University of Hawaii
[1] Tác giả đang là nghiên cứu sinh về đề tài Bản sắc dân tộc tại Viện hàn lâm khoa học Ba Lan, viện Triết và Xã hội học, đồng thời cũng là hội viên của hiệp hội nghiên cứu các vấn đề dân tộc ASEN, LSE, Anh quốc. Email liên hệ thanhai@wp.pl
[2] Một số tri thức Việt Nam từng thử nghiệm với đếch-ism như trên diễn đàn Thanh Niên Xa Mẹ (Tathy/Thăng Long), lưu trữ ở địa chỉ mạng http://www.tathy.com/thanglong/archive/index.php/t-10.html, hoặc từng được đăng lại trên talawas.org
[3] Các học giả nêu tên trong bài đều được tác giả soạn chuyên mục giải thích trên trang Wikipedia tiếng Việt để tiện cho độc giả có thể vào tra cứu và tìm hiểu thêm.
[4] Câu hỏi này tiếp tục là đề tài cho các cuộc tranh luận sau này như tên gọi cho phiên hội thảo quốc tế thường niên lần thứ 14 của Hiệp hội nghiên cứu dân tộc ASEN tổ chức ở London 23-24.IV.2004: When is the nation?: the debate, mà một số tham luận được in thành sách (Ichijo&Uzelac ed. 2005)
[5] http://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2005/03/050322_anderson_nationalism.shtml
[6] Như đã trình bày, tức là sử dụng primordialism hoặc perenialism. Bạn đọc quan tâm về các lối phân chia có thể tìm đọc các giáo trình của Anthony Smith (2000a, 2000b, 2009), cũng có phân tích sâu hơn về mâu thuẫn giữa lối tư duy voluntarism - được coi là đặc trưng cho văn hóa Anglo-Saxon, tức là mỗi cá nhân có quyền chọn lựa dân tộc cho mình và organicism - trường phái lãng mạn Đức, cho rằng dân tộc gắn liền với mỗi cá nhân từ khi sinh ra, hay các cơ sở của trường phái instrumentalism
[7] Thaveeporn Vasavakul (1998) từng có phân tích rất chi tiết về khác biệt giữa hai hệ thống ý thức về dân tộc thông qua hai nền giáo dục khác nhau giữa hai miền Nam - Bắc Việt Nam trong khoảng thời gian 1945-1965.
[8] Ví dụ như United States (of America) là Hiệp chủng Quốc và United Nations là Liên hiệp Quốc.
[9] Các hệ thống khái niệm đương đại cũng được tác giả bài viết giới thiệu trên trang blog ở địa chỉ bansacdantocvietnam.blogspot.com