Wednesday, November 19, 2008

Bản sắc xã hội

Bản sắc xã hội
Lê Hải biên soạn
[1] [2]

Bản sắc xã hội (social identity) nhìn từ góc độ của ngành tâm lý xã hội được định nghĩa như là "những cảm quan về khái niệm bản thân, tạo thành từ kiến thức và cảm nhận của cá nhân về các tư cách thành viên trong nhóm mà cá nhân đó cùng chia sẻ với những người khác" (tr.205).

Vài nét về tâm lý xã hội

Vốn phôi thai từ cuối thế kỷ 19 và phát triển mạnh trong nửa sau của thế kỷ 20, ngành tâm lý xã hội (social psychology) đặt nền móng trên hai tiên đề cơ bản, rằng "con người xây dựng thực tại xã hội và xã hội ảnh hưởng lên sinh hoạt đời thường của con người. Nói một cách đơn giản, con người giúp định nghĩa môi trường xã hội và cùng lúc môi trường xã hội ảnh hưởng lên họ" (tr. xix). Do đó, ngành tâm lý xã hội "nghiên cứu các ảnh hưởng đồng thời của xã hội và quá trình nhận thức lên ý thức của mỗi cá nhân, mà qua đó sẽ ảnh hưởng và liên hệ với các cá nhân khác. Tâm điểm quan tâm của tâm lý xã hội học là người ta hiểu và tương tác với những người khác như thế nào" (tr.3). Cần chú ý rằng khái niệm trung tâm ở đây là xây dựng thực tại (construction of reality), tức là thực tại được phản ánh trong tư duy của mỗi người bằng một kết cấu, tạo thành qua quá trình nhận thức (cognitive process) và được bồi đắp thông qua các tương tác xã hội, có thể trực tiếp với những người thực việc thực nhưng cũng có thể là gián tiếp (thông qua trí tưởng tượng, hoạt động nghe nhìn từ sách báo, phim ảnh, truyền thông...).

Tôi, chúng ta và chúng nó

Từ góc nhìn như vừa kể, quá trình nhận thức về bản thân bằng cách phân loại và định nghĩa tư cách thành viên trong nhóm của mỗi bản thân là một trong những đề tài được tâm lý xã hội học đặc biệt quan tâm. "Khi người ta coi mình là thành viên tiêu chuẩn của một nhóm, thì cũng giống như bấy kỳ cảm nhận nào khác về khái niệm bản thân, cảm giác này sẽ điều khiển suy nghĩ và hành động của cá nhân đó" (tr.211). Nhờ quá trình tự phân loại mà cái tôi trở thành chúng ta, còn bên ngoài là chúng nó. Thực ra ý thức về tư cách thành viên trong nhóm có thể không xuất hiện mà chỉ được khởi động khi nào được ai đó nhắc nhở trực tiếp thông qua tên gọi cho nhóm, hay khi được đặt cạnh một nhóm khác, khi bị trở thành thiểu số trong một quần thể, hoặc mối quan hệ giữa hai nhóm trở nên mâu thuẫn nặng nề. "Con người biết thêm về nhóm mà mình đang thuộc về bằng cách cũng giống như khi nhận biết về những đặc tính của các nhóm khác: thông qua quan sát các thành viên của nhóm khác hoặc qua văn hóa" (p.244). Về lâu dài thì bản sắc xã hội cũng có thể dần hình thành trong ý thức của mỗi cá nhân nếu nền văn hóa nhấn mạnh đến vai trò thành viên của người tham gia, hoặc cá nhân đó thường xuyên nghĩ đến vị trí thành viên của mình.

Nội và ngoại

Mỗi con người đều có đồng thời hai nhu cầu theo chiều hướng ngược lại với nhau, luôn trong trạng thái cân bằng động. Trước hết người ta muốn coi mình là cá nhân riêng biệt không giống ai khác. Cùng lúc thì họ cũng muốn giống với người khác và có mối quan hệ với một nhóm người. Mối quan hệ đó có thể là cảm giác nằm bên trong, hay còn gọi là nhóm nội (in-group) hoặc tách ra bên ngoài, hay còn gọi là nhóm ngoại (out-group). Sự cân bằng giữa hai xu hướng tách riêng và nhập hội trong mỗi con người cũng sẽ thay đổi nếu môi trường xã hội xung quanh người đó thay đổi về số lượng và kích thước. Trong nhóm nhỏ người ta có cảm giác gần gũi nhưng cũng có bực bội vì không có nhiều khoảng không cho cái riêng. Trong nhóm lớn thì người ta có thể thoải mái về sự riêng tư, nhưng có lúc lại thấy cô đơn lạc lõng vì mối quan hệ quen biết quá lỏng lẻo. Do mối quan hệ giữa hai xu hướng vừa nêu vốn là trạng thái cân bằng động, bản sắc xã hội luôn là một quá trình hay tiến trình dịch chuyển là hệ quả của sự thay đổi môi trường sống. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm ghi nhận ba quá trình đáng chú ý.

Bản sắc tích cực

Trước hết, có một lý thuyết được gọi lên là lý thuyết bản sắc xã hội (social identity theory) ghi nhận rằng "động cơ của con người ta muốn có được sự thỏa mãn tâm lý nội tại (self-esteem) về tư cách thành viên nhóm của mình chính là lực đẩy đằng sau sự thiên vị dành cho nhóm nội" (tr.222). Khi tư cách thành viên nhóm đơn thuần chuyển lên thành thể bền vững hơn hay còn gọi là bản sắc xã hội, thì người ta có thiên hướng 1) coi các thành viên của nhóm nội cũng đều giống như bản thân mình, 2) có cảm giác thích các thành viên trong nhóm nội của mình, và 3) đối xử với họ rất công bằng và đầy lòng vị tha.

Định kiến

Quá trình chuyển hóa thứ hai được mô tả xoay quanh khái niệm stereotype, tức là những định kiến hay 'cái tính được cho là' của nhóm người khác với mình - nhóm ngoại. Phát xuất từ quá trình phân loại, người ta sẽ nhìn vào một nhóm ngoại với những tính chất dễ nhận dạng, và khái quát hóa lên thành một nhóm đồng nhất. Tùy thuộc vào thái độ đối với nhóm đó mà người ta sẽ chấp nhận các mức độ đối xử khác nhau. 1) Nếu nhóm ngoại chỉ được ghi nhận như là có những khác biệt so với nhóm nội, thì cá nhân này chỉ dừng ở mức không thích nhóm ngoại đó cho lắm, so với tình cảm thích người - thành viên của nhóm nội. 2) Nếu nhóm ngoại bị coi là gây thiệt hại cho nhóm nội thì cá nhân này không chỉ không thích và bực bội với nhóm ngoại, mà còn sẵn sàng ủng hộ những ai có hành động chống lại nhóm đó. 3) Nếu nhóm ngoại bị coi là mối đe dọa nghiêm trọng cho nhóm nội, thì lòng thù ghét đối với họ sẽ dễ kéo theo hành động bạo lực.

Nhóm tiêu cực

Quá trình thứ ba này xuất hiện khi cá nhân là thành viên của một nhóm bị người ta không thích hoặc ghét bỏ. Trước hết, nếu cá nhân cảm thấy cần bảo vệ lòng tự trọng hay tiếp tục duy trì sự thỏa mãn tâm lý nội tại, người này sẽ chọn thái độ coi mình là nạn nhân của định kiến, hoặc so sánh vai trò xã hội giữa mình và các thành viên khác trong nhóm. Nếu cá nhân không có như cầu như vừa nêu thì sẽ tùy thuộc vào sự xác định vai trò của mình trong nhóm mạnh yếu thế nào. Khi cá nhân không thấy mình là thành viên của nhóm cho lắm, thì sẽ tìm một sự ổn định về xã hội, cho nên sẽ chống lại con đường cả nhóm đang đi - trở thành nhà bất đồng chính kiến, hoặc đơn giản là rút lui khỏi nhóm đó. Nếu cá nhân xác định rất rõ mình là thành viên của nhóm, thì sẽ đi tìm cơ hội thay đổi xã hội, có thể i) phát triển sáng tạo trong xã hội, ii) tìm sự cạnh tranh trong xã hội, hoặc iii) đặt lại hệ thống phân loại.

Hành vi nhóm


Có thể thấy bản sắc xã hội chính là cảm nhận của mỗi người về việc anh ta hay chị ta là ai, bắt nguồn từ (một hay nhiều) tư cách thành viên của anh ta hay chị ta trong nhóm. Thường với câu hỏi 'Tôi là ai' người ta có thể trả lời cụ thể việc đang làm, hay chung chung về vai trò, hoặc giới tính, và sắc tộc/quốc tịch. Cách nhìn này gắn liền với tên của George Mead từ thập niên 1930s, nhưng đến khoảng 1970s và 1980s mới bắt đầu được kết dính với hành vi nhóm qua các nghiên cứu của Henri Tajfel và John Turner, ứng dụng lý thuyết về so sánh xã hội mà giải thích rằng chúng ta luôn định giá trị nhóm của mình bằng cách so sánh với các nhóm khác. Kết quả của các phép so sánh đó vô cùng quan trọng vì ảnh hưởng tới sự thỏa mãn tâm lý nội tại của mỗi cá nhân. Ví dụ như fan hâm mộ của đội banh thắng trận thích mặc quần áo và huy hiệu của đội hơn là bên thua. Người ta cũng thấy sự thiên vị thấy rõ đối với các thành viên trong nhóm mà người đánh giá tự xác định mình là thành viên.


[1] Dựa trên nội dung từ chương 6 (Social Identity), giáo trình ngành Tâm lý xã hội học (Social Psychology) do Eliot R. Smith và Diane M. Mackie biên soạn, ấn bản lần 2 năm 2000. Psychology Press thuộc Taylor&Francis Group xuất bản tại Hoa Kỳ và Anh quốc. Các đoạn trong ngoặc kép được trích dẫn và dịch từ sách này. Chú thích là của người biên soạn.

[2] Được bổ sung thêm góc nhìn từ chương 15 (Intergroup Relations) do Rubert Brown phụ trách, trong giáo trình Nhập môn tâm lý xã hội học do Miles Hewstone và Wolfgang Stroebe biên soạn, ấn bản lần 3 năm 2003 (1988). Phần bổ sung bắt đầu từ mục 'hành vi nhóm'.

Sunday, November 16, 2008

Mười điều cần biết về nhân học xã hội

Mười điều cần biết về nhân học xã hội
Alan Barnard, Lê Hải lược dịch và chú thích
[1]

Lời nói đầu
[2]: Nhân học xã hội (social anthropology) là đề tài rất khó trình bày, vì ba lý do. Thứ nhất, khó có thể nói đó là môn học về cái gì; thứ hai, không rõ là bạn phải làm gì để nghiên cứu; và thứ ba, hình như không ai biết cách giải thích sự khác nhau giữa học môn nhân học và thực hành nó. [...]

Dẫn nhập: Trên thế giới mỗi năm có hàng ngàn sinh viên theo học ngành nhân học xã hội, một ngành đang ngày càng mở rộng. Một số sinh viên sẽ tiếp tục theo đuổi để trở thành những nhà nhân học chuyên nghiệp. Một số khác sẽ làm việc trong các lãnh vực có liên quan: bảo tàng, khảo cổ, quan hệ cộng đồng, ngoại giao, hành chính công, báo chí và phát triển Thế giới thứ ba. Một số khác nữa sẽ dùng kỹ năng và kiến thức trong nghề giáo viên bậc phổ thông. [...]

1. Nghiên cứu nhân học xã hội
Nhân học xã hội là ngành học về cuộc sống xã hội của loài người. Sinh viên học môn này vì nhiều lý do khác nhau, nhưng đa số là vì muốn tìm hiểu những trải nghiệm rất khác nhau và đa dạng của con người. Kiến thức về sự giống nhau và khác biệt giữa các xã hội sẽ giúp sinh viên hiểu hơn về xã hội nói chung. Nhân học xã hội có thể bổ sung cho nhiều bộ môn khác, và cũng có thể ứng dụng trong nhiều ngành nghề. [...]

2. Dân tộc ký: viết về dân chúng
Dân tộc ký (ethnography) có nghĩa là viết về dân chúng. Đối tượng của dân tộc ký là thâm nhập vào bên trong một nền văn hóa khác, và mục tiêu là so sánh kết quả với những nghiên cứu dân tộc ký đối với các nền văn hóa khác. Xuất phát của ngành dân tộc ký bắt đầu từ thế kỷ 19, và sinh viên ngành nhân học vẫn tiếp tục học các kỹ năng dân tộc ký cổ điển, được xây dựng chủ yếu từ đầu thế kỷ 20. [...]

3. Sinh thái học: kiến thức về môi trường và kỹ thuật
Sinh thái học (ecology) là môn học về mối quan hệ giữa các sinh vật sống và môi trường. Trong ngành nhân học, bộ môn này quan tâm đến mối quan hệ giữa con người trong môi trường sống của họ, và chuyện họ sử dụng kỹ thuật như thế nào để khai thác môi trường đó. Các nhà nhân học sinh thái tập trung vào việc người làm thế nào để kiếm sống và thường chuyên tâm vào các nguyên cứu những mô hình xã hội đặc biệt trên cơ sở này, ví dụ như loại hình săn bắn hái lượm, các cộng đồng ngư dân, v.v. [...]

4. Kinh tế: diễn giải sản xuất và phân phối
Kinh tế đề cập tới các vấn đề vật chất của xã hội. Các vấn đề đó bao gồm sản xuất, phân phối nội bộ, và trao đổi với các xã hội khác. Các ca nghiên cứu được dân tộc ký khai thác để làm nổi bật góc cạnh văn hóa của các hệ thống kinh tế và soi sáng kiến thức về kinh tế vốn trừu tượng. Các nghiên cứu nhân học sẽ tạo ra nhiều lý thuyết khác nhau về các cơ sở kinh tế.

5. Chính trị và luật: phân quyền và kiểm soát xã hội
Chính trị bao gồm quyền lực và uy tín lãnh đạo, chính sách chọn lựa, và cơ cấu kiểm soát xã hội (băng nhóm, bộ lạc, thủ lãnh và quốc gia). Nhân học chính trị tập trung vào các vấn đề đó cùng với những đề tài có liên quan như sắc tộc và chủ nghĩa dân tộc. Nghiên cứu nhân học trong luật pháp cũng có liên quan tới nhân học chính trị. Nó thiên về các nghiên cứu so sánh, đặc biệt là đối với luật lệ trong các xã hội ở qui mô nhỏ
[3]. [...]

6. Lòng tin, nghi lễ tôn giáo và hệ thống biểu tượng
Lòng tin, nghi lễ tôn giáo và hệ thống biểu tượng (symbolism) là những góc cạnh phức tạp của văn hóa. Nhà nhân học tìm cách diễn giải các hệ thống này mà không áp đặt trước lối đánh giá bằng lòng tin tôn giáo của bản thân. Họ lập ra các khái niệm xây dựng nên từ quá trình nghiên cứu nhiều xã hội và các phương pháp dựa trên quan sát và linh cảm. Những khác biệt then chốt, như hi sinh và báng bổ, hay phù thủy và yêu thuật giúp cho công việc đó được dễ dàng hơn. Nhờ tìm cấu trúc của các huyền thoại và hệ thống biểu tượng, một số nhà nhân học đã tìm được ý nghĩa của cái mà ban đầu tưởng như là một mớ hỗn độn vô nghĩa
[4]. [...]

7. Tính dục, giới tính và gia đình
Tính dục liên quan đến sinh vật, còn giới tính thì dính nhiều tới các hành vi xã hội và văn hóa. Các nhà nhân học đã nghiên cứu giới tính trong các xã hội khác nhau, nhưng quan trọng hơn là họ đã tiến hành so sánh giữa các nền văn hóa và tìm bằng chứng ủng hộ hoặc phản lại các suy nghĩ phổ biến về tính dục và giới tính. Lập luận nữ quyền ảnh hưởng đặc biệt mạnh khiến các nhà nhân học phải cân nhắc về các vấn đề như vậy. Tương tự vậy, các nghiên cứu xuyên văn hóa về gia đình và hôn nhân cho thấy những gì chúng ta thường coi như là phổ biến lại hóa ra không phải như vậy
[5]. [...]

8. Dòng họ: thuật ngữ, gốc gác và liên minh
Dòng họ là bộ môn đòi hỏi nhiều kỹ thuật nhất của nhân học, nhưng cũng không kém sức thu hút. Chìa khóa để thành công là học những khái niệm cơ bản và làm chủ kỹ năng đọc và vẽ sơ đồ họ hàng. Bộ môn dòng họ bao gồm phép phân loại người thân, cơ cấu tổ chức các nhóm họ hàng, và các quan niệm về hôn nhân. Các nhà nhân học chuyên tâm vào các nhóm họ hàng được gọi là 'các lý thuyết gia về gốc gác', và những ai quan tâm hơn đến các mối quan hệ giữa các nhóm (qua hôn nhân) được gọi là 'các lý thuyết gia về liên minh'
[6]. [...]

9. Nhân học ứng dụng và phát triển
Một số nhà nhân học coi ngành nhân học ứng dụng (applied) như một nhánh của nhân học chuyên nghiên cứu các vấn đề mang giá trị thực dụng, trong khi một số khác thì lại tin rằng tất cả các nhánh của nhân học đều có nhiều khả năng áp dụng được trong cuộc sống. Bất kể quan điểm là như thế nào thì những người nghiên cứu nhân học ứng dụng sử dụng các tư tưởng của nhân học trong các lãnh vực như giáo dục đa văn hóa, chính phủ, y tế và công tác thiện nguyện. Nhân học phát triển (development) cũng là ngành có liên quan. Các nhà nhân học phát triển tập trung vào công tác tư vấn cho các chính phủ và các tổ chức từ thiện về các vấn đề xã hội và văn hóa liên quan tới phát triển kinh tế, đặc biệt là ở Thế giới thứ ba
[7]. [...]

10. Lý thuyết nhân học
Lý thuyết nhân học cùng lúc hướng dẫn quá trình nghiên cứu theo phương pháp nhân học và đồng thời cũng đưa ra giải nghĩa cho các kết quả tìm được. Nó tạo ra khung lý thuyết cho hệ thống kiến thức về văn hóa và xã hội. Bởi vì các nhà nhân học có quan điểm khác nhau về kết cấu của một khung lý thuyết như vậy, cho nên họ thường tranh cãi. Lý thuyết nhân học thay đổi rất nhiều trong những năm qua, nhưng nhiều nhà nhân học dự vào các hệ tư tưởng cổ điển hoặc đặt cơ sở cho quan điểm hiện tại của mình dựa trên những cuộc tranh luận quan trọng trong quá khứ. [...]

--------------------------------------------------------
[1] Đây là quyển giáo trình cho sinh viên do giáo sư Alan Barnard biên soạn Social Anthropology - Investigating Human Social Life, Studymates xuất bản lần thứ hai 2006 (2000), 160 trang. Người dịch chỉ chuyển tải phần rút gọn ở mỗi đầu chương để cung cấp một số ý niệm cơ bản. Quí vị có thêm quan tâm về quyển sách này xin mời truy cập vào địa chỉ www.studymates.co.uk để tham khảo thêm. Giáo sư Alan Barnard dạy ở khoa Nhân học chuyên về vùng Nam Phi của Đại học Edinburgh, email: alan.barnard@studymates.co.uk
[2] Foreword do giáo sư Tim Ingold từ Đại học Aberdeen viết.
[3] Ví dụ như công trình nghiên cứu và mô tả hoạt động cấp phường ở Hà Nội của tiến sĩ chính trị học người Singapore David Koh, Viện nghiên cứu Đông Nam Á. Có thể đọc thêm ở trang mạng giới thiệu sách http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/08/080822_david_koh.shtml
[4] Ví dụ như công trình nghiên cứu và phân loại hồn ma ở Việt Nam của tiến sĩ nhân học Anh gốc Hàn quốc Kwon Heon-ik, Đại học Edinburgh. Có thể đọc thêm ở trang mạng giới thiệu sách http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/09/080908_kwon_heonik.shtml
[5] Ví dụ như công trình nghiên cứu tái dựng hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hậu thuộc địa của tiến sĩ nhân học Anh Susan Bayly, Đại học Cambridge. Có thể đọc thêm ở trang mạng giới thiệu sách http://www.bbc.co.uk/vietnamese/magazine/story/2008/08/080826_hanoi_intellectuals.shtml
[6] Ví dụ như các nhà nghiên cứu phát hiện thấy mối quan hệ mandala - dùng hôn nhân để tạo liên minh giữa các nhóm - rất phổ biến trong ngoại giao ở Đông Nam Á trước thời bị thực dân ảnh hưởng. Nhà Trần từng giữ mối quan hệ ngoại giao với vương quốc Chămpa bằng đám cưới Công chúa Huyền Trân và vua Chế Mân (Jaya Sinhavarman III), đổi lại quyền làm chủ châu Ô và châu Lý. Có thể đọc thêm ở http://vi.wikipedia.org/wiki/Huyền_Trân, hoặc http://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2005/07/050724_regionalism.shtml


[7] Ví dụ như công trình nghiên cứu của chuyên gia Ronald Bruce St John về chiến lược cải tổ của Việt Nam. Có thể đọc thêm ở trang mạng giới thiệu sách http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/09/080910_gioihancaicach.shtml

Saturday, November 15, 2008

Phương pháp phỏng vấn ít chính thức

Phỏng vấn ít chính thức
Từ giáo trình
[1] ĐH De Montfort, Lê Hải dịch và chú thích

[...] Những nhà nghiên cứu chọn lựa hình thức phỏng vấn ít chính thức thường quan tâm đến việc tạo ra sự thông hiểu thiên về chất
[2] đối với đề tài đang nghiên cứu. Điều đó có nghĩa là họ sẽ dùng phỏng vấn để có được cái nhìn sâu sắc vào ý nghĩa, diễn giải, giá trị và trải nghiệm của người trả lời phỏng vấn cùng với "thế giới" của người đó. Tiềm ẩn trong phương pháp này là rất nhiều các hiểu ngầm và hệ quả quan trọng mà, đáng để chú ý, có thể phát triển từ, hoặc hơn vậy là song hành, với các phỏng vấn chính thức dùng bảng khảo sát.

Mục tiêu của phỏng vấn ít chính thức

Các nhà nghiên cứu làm việc với các phỏng vấn ít chính thức tiếp nhận một góc nhìn khác về bản chất của thế giới xã hội mà theo họ, khác với thế giới tự nhiên vì nó được tạo thành chủ yếu là từ ý nghĩa, giá trị và diễn giải. Theo cách nhìn này, con người khác với các vật thể tự nhiên nhờ khả năng biết giải nghĩa hành động của chính mình và của những người khác, phản ứng theo kiến thức của họ và gắn liền cuộc sống và hành động của họ với ý nghĩa (meaning). Những ý nghĩa này không được hiểu như là những thực tại cố định, có thể "đo đếm" được, mà được chủ động tạo dựng và thêm bớt thông qua tương tác xã hội. Nhiệm vụ của người phỏng vấn là tạo ra và thích nghi với những điều kiện mà trong đó người trả lời phỏng vấn sẽ bộc lộ hay "cởi mở" tâm tư hay "chuyện riêng" có liên quan với vấn đề đang nghiên cứu.

Theo đó, những ai làm việc với phương pháp này sẽ coi như luôn tồn tại nhiều góc nhìn khác nhau và nhiều chiều trong những người có liên quan đến đề tài hay vấn đề đang nghiên cứu. Các mục tiêu và kỹ thuật phỏng vấn sẽ được áp dụng để giảm bớt những nghi lễ, sự kiểm soát và khoảng cách thường xuất hiện trong kiểu phỏng vấn dùng bảng khảo sát, thay vào đó là loại hình trao đổi, uyển chuyển. Vì vậy phương pháp sẽ đề cao các câu hỏi mở (open-ended) và không trực tiếp, hơn là yêu cầu người trả lời phỏng vấn cung cấp những mảnh thông tin đặc biệt, trả lời những câu hỏi đã cố định sẵn. Người phỏng vấn sẽ không có bảng câu hỏi đặt sẵn, mà chỉ là một danh sách các chủ đề hay điểm cần chú ý và đi theo trong khi thảo luận. Vai trò của người phỏng vấn thường sẽ là bị động, là quá trình nghe chủ động và nhắc nhở, hơn là lo quản lý danh sách câu hỏi cần trả lời. Loại hình phỏng vấn này cũng thường đi kèm với các loại hình quan sát, mà trong một số trường hợp còn là quan sát có tham gia (participant observation), tức là người phỏng vấn sẽ tham gia các hoạt động hay bối cảnh xã hội (social setting) đang được nghiên cứu. Như vậy các cuộc phỏng vấn sẽ được thực hiện trong bối cảnh và ngữ cảnh "tự nhiên", trong "lãnh thổ" quen thuộc đối với người trả lời phỏng vấn hơn là với người phỏng vấn. Nói một cách tổng quát thì người phỏng vấn trong phương pháp này sẽ chú ý hơn đến từng cuộc phỏng vấn một - bao gồm cả phần của họ trong đó - và khả năng ảnh hưởng của nó đối với toàn bộ nhữ cận cảnh và dữ liệu thu thập được. Vấn đề này được mô tả bằng khái niệm "phản thân" (reflexivity). Người phỏng vấn sẽ ít đóng vai "kẻ thẩm vấn" mà sẽ thiên về vai "người hướng dẫn" trong cuộc phỏng vấn và trong quá trình "tìm kiếm" qua lại về đề tài đang được nghiên cứu.

Phỏng vấn ít chính thức tương phản với loại hình survey qua các điểm sau:
a. Người phỏng vấn đặt mục tiêu "đi vào bên trong" các ý nghĩa chủ quan và "thế giới" của người được phỏng vấn. Phương pháp này tốn nhiều thời gian hơn, nhưng có khả năng nhận được phản ứng sâu hơn.
b. Cuộc phỏng vấn sẽ ít nghi thức hơn, mở hơn, uyển chuyển hơn và giống cuộc nói chuyện hơn, và sẽ diễn ra trong một bối cảnh tự nhiên hơn.
c. Vai trò của người phỏng vấn và người được phỏng vấn được phân biệt rõ ràng, người phỏng vấn sẽ thay đổi và thích nghi nhiều hơn với người được phỏng vấn trong quá trình khám phá đề tài đang được bàn luận. Trong một số trường hợp thì người được phỏng vấn sẽ là người "đặt nghị trình" hơn là người phỏng vấn.
d. Thay vì tạo ra một danh sách các câu hỏi, người phỏng vấn sẽ dùng chuỗi uyển chuyển các câu hỏi không trực tiếp để kích thích hoặc "lèo lái" người được phỏng vấn vào khu vực đang quan tâm. Do đó, quá trình phỏng vấn sẽ liên tục được nâng cấp.
e. Thông tin ghi lại trong cuộc phỏng vấn sẽ rất khác nhau. Dữ liệu sẽ ít theo kết cấu, ít dự đoán trước và khó áp dụng phương pháp mã hóa và phân tích bằng xác suất thống kê. Cũng khó có thể so sánh dữ liệu từ các cuộc phỏng vấn khác nhau và dùng các cuộc phỏng vấn làm cơ sở để tổng quát hóa.

Tóm lược

Thế mạnh chủ yếu hay cũng là lợi thế của phương pháp phỏng vấn ít chính thức chính là khả năng thâm nhập sâu và cận cảnh hơn những phương pháp phỏng vấn dùng bảng khảo sát. Sử dụng kỹ năng phỏng vấn ít chính thức, nhà nghiên cứu có thể tiếp cận gần một cách đáng kể đối với ý nghĩa, động cơ, giá trị hay cảm giác của những người đồng ý tham gia cuộc phỏng vấn. Họ có thể "đào sâu hơn" và kết quả của loại hình này thường rất đa dạng về mô tả. Trong khi các cuộc phỏng vấn survey có thể đề cập đến sự tồn tại của một giá trị hay tính chất cụ thể, thì phỏng vấn ít chính thức cho phép nhà nghiên cứu đi thẳng vào trung tâm của vấn đề.

Tuy nhiên, thế mạnh đối với một số người lại có thể bị một số người khác coi là điểm yếu. Với các nhà nghiên cứu làm việc với truyền thống survey, các cuộc phỏng vấn không chính thức đáng nghi ngại về nội dung. Đặc biệt là không có bằng chứng hay cơ chế dễ dàng nào để so sánh các câu trả lời, đo đếm hay tổng quát hóa. Để có được "câu chuyện bên trong", cuộc phỏng vấn ít chính thức tạo cơ hội cho sự thiên lệch chủ quan - giá trị của riêng người nghiên cứu hay của người được phỏng vấn - đối với cả hai người tham gia. Thêm vào đó, vì thời gian dài và căng thẳng của cuộc phỏng vấn, thường chỉ phỏng vấn một lượng nhỏ người hơn là so với phương pháp survey. Điều đó ít tạo nổi cơ sở để thực hiện phép tổng quát hóa theo xác suất thống kê. Ngược lại với phương pháp phỏng vấn dùng bảng khảo sát, các phỏng vấn ít chính thức có thể cho chúng ta biết rất nhiều về cá nhân hay ca cụ thể, nhưng lại không thể hiện bao nhiêu về qui luật hay xu hướng. Nhưng ngược lại, điểm mạnh của phỏng vấn ít chính thức cung cấp hình ảnh đầy đủ và hoàn hảo hơn của đề tài.

Cần phải ghi nhớ hai vấn đề ở đây. Trước hết, hai phương pháp phỏng vấn được phát triển để xử lý hai loại câu hỏi và mức độ phân tích khác nhau. Cả hai đều có thế mạnh khi dùng để nghiên cứu các vấn đề và câu hỏi phù hợp. Khác biệt cơ bản của phương pháp định lượng và định tính
[3] chính là vấn đề cần được giải quyết ở đây. Câu trả lời đó cho phép nhà nghiên cứu phát triển theo hướng này hay hướng kia. Thứ đến, hai phương pháp phỏng vấn có thể được áp dụng phối hợp trong nghiên cứu. Kỹ thuật phỏng vấn ít chính thức có thể giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển lên thành một bảng khảo sát chính thức, và có thể cung cấp những phương tiện quan trọng cho các nghiên cứu tiếp theo trong một lãnh vực quá phức tạp vượt khỏi giới hạn của survey.

Các bước trong phỏng vấn ít chính thức

Thực ra không có một phương pháp mẫu nào cho cuộc phỏng vấn ít chính thức. Quá trình phỏng vấn nói chung đòi hỏi phải có một lượng kỹ năng nhất định, kiên nhẫn và tiếp cận nhiều hơn với người được phỏng vấn hơn là trường hợp survey. Các bước tiến hành cũng cần được so sánh với các bước tương tự trong survey
[4] và có thể tổng kết thành bốn bước như sau: cụ thể hóa; tiếp xúc; phỏng vấn và phân tích.

Cụ thể hóa
Bước ban đầu, mang tính chuẩn bị này cũng khá giống với những gì đã trình bày trong phần giới thiệu survey. Nó cần định nghĩa chính xác mục tiêu của nghiên cứu, về chuyện tham khảo bất kỳ nguồn thông tin nào khác có liên quan và xác định chung về mục tiêu. Bạn cần cân nhắc toàn bộ cuộc nghiên cứu để cân nhắc việc dùng phương pháp phỏng vấn ít chính thức, và cần cung cấp lý do thuyết phục khi áp dụng đối với đối tượng hay đề tài nghiên cứu. Cần phải định rõ những gì bạn muốn đạt được nhờ sử dụng phương pháp này. Bạn sẽ cần định hình các đề tài và câu hỏi của mình trong điều kiện có thể nhất tại thời điểm này. Cũng cần phải làm một số phỏng vấn thử nghiệm (pilot).

Tiếp xúc
Bạn sẽ phải chọn và liên hệ với những người có nhiều trở thành người được phỏng vấn. Có thể cần phải liên lạc tất cả, hay một lượng người được chọn, từ một nhóm hay địa điểm nhất định, ví dụ như trong một ca nghiên cứu về văn hóa làm việc cụ thể. Điều đó có nghĩa là bạn cần tìm cách liên lạc với nhiều gia đình, những người già, phụ nữ làm việc, các đại diện của những loại người tổng quát. Trong những trường hợp đó bạn sẽ phải thiết lập một điểm liên lạc với những người có nhiều khả năng trở thành người được phỏng vấn sau này. Có thể thực hiện thông qua mạng lưới quan hệ hiện có (ví dụ liên lạc với độc giả của tạp chí thông qua danh sách của nhà phân phối) hay tham gia một sự kiện hay cuộc họp cụ thể nào đó (ví dụ tham gia câu lạc bộ hay nhóm xã hội) để xây dựng quan hệ. Như một phần của quá trình này bạn sẽ phải giới thiệu sơ lược về nghiên cứu của mình và các đề tài bạn muốn bàn thảo trong cuộc phỏng vấn. Nói chung, người phỏng vấn sẽ thích nghi với người được phỏng vấn, và người được phỏng vấn cũng nên có quyền đề nghị nơi gặp. Nhà của họ thường được coi là địa điểm tốt nhất, trừ khi có những yêu cầu đặc biệt nào đó về nơi chốn xảy ra cuộc phỏng vấn theo thiết kế của cuộc nghiên cứu - ở nơi làm việc, trong câu lạc bộ, ở trường v.v.

Phỏng vấn
Hiện có nhiều tranh cãi về cách được coi là hiệu quả nhất khi ghi âm cuộc phỏng vấn ít nghi thức hoặc không chính thức. Các cố gắng tạo ra những loại hình bất nghi thức khác nhau thường bị chuyện ghi âm phá hỏng hoặc ảnh hưởng xấu. Có thể xem thêm chương 23 về các lời khuyên khi ghi âm. Thường thì nên bắt đầu cuộc phỏng vấn bằng cách ghi lại tên của người được phỏng vấn và các dữ liệu có liên quan đến dự án. Người được phỏng vấn cũng được bảo đảm về độ bảo mật đối với các câu trả lời của họ và tính chất của cuộc nghiên cứu. Trong cuộc phỏng vấn vô cùng bất chính thức thì cả hai bước đó đều được thay đổi cho phù hợp. Trong một số trường hợp cũng nên nói trước sẽ có bao nhiêu thời gian để bạn có thể chủ động tiến trình phỏng vấn. Nói chung khoảng một giờ đồng hồ là thời gian tối thiểu để có được một cuộc phỏng vấn hiệu quả. Các câu hỏi và nội dung chính cùng chuỗi trình tự nên được chuẩn bị sẵn và cân nhắc từ trước, nhưng các câu hỏi nối tiếp (follow-up) và bàn luận thì không thể có sẵn. Kỹ thuật vòng lặp (looping - phát triển câu hỏi khuyến khích từ chính câu trả lời vừa xong) cũng là kỹ thuật hữu dụng để giữ cho người được phỏng vấn tiếp tục "trôi chảy". Nhiều nhà nghiên cứu đề cao giá trị của các câu hỏi nối tiếp trong trường hợp này.

Phân tích
Khi đã có đủ lượng phỏng vấn cần thiết và tùy thuộc vào phương pháp được sử dụng để ghi lại các cuộc phỏng vấn, bạn sẽ có vô số thông tin và dữ liệu "thô". Nói chung, quá trình phân tích đòi hỏi bạn phải thân thuộc với những thông tin này, "đặt mình" vào các hoàn cảnh khác nhau của những người được phỏng vấn. Như một phần của phương pháp, bạn có thể thấy việc tóm lược mỗi cuộc phỏng vấn sẽ rất hữu dụng, ghi nhận những câu chuyện chính hay các điểm nhất quán trong các vấn đề mà người được phỏng vấn đã đề cập. Báo cáo và diễn giải của những tóm lược đó, thường với trích dẫn và mở rộng đi kèm, sẽ giúp bước cuối cùng trong quá trình viết luận văn. Trong ngữ cảnh của phạm vi nghiên cứu mà bạn đã bắt đầu, những người được phỏng vấn đã nói gì với bạn về đề tài nghiên cứu?

------------------------------------------------------------
[1] Bản gốc tiếng Anh là chương 22 của quyển giáo trình Kỹ năng nghiên cứu cho sinh viên (Research Skills for Students) của De Montfort University (Leceister, Anh quốc), Kogan Page xuất bản năm 1996 (tái bản 1998, 2001) ở London, 128 trang. Tác giả là các giảng viên của trường: Brian Allison, Alun Owen, Arthur Rothwell và Tim O'Sullivan, Carol Saunders, Jenny Rice biên soạn phần về phỏng vấn.
[2] (hơn là lượng) qualitative understanding. Trong một thời gian dài phương pháp định lượng (quantitative) chiếm ưu thế và các giáo trình thường giới thiệu phương pháp định tính (qualitative) như phần bổ sung, đối chiếu với các trình bày trước đó về phương pháp định lượng. Đây cũng là trường hợp của giáo trình này. Đoạn văn (thay bằng dấu [...] trong bài dịch ở trên) trước phần này như sau:
Chương trước đã nhắc nhở rằng các phỏng vấn chính thức dùng bảng khảo sát (formal survey interview) thường chủ yếu quan tâm đến việc thu thập một lượng lớn dữ liệu thông qua một hệ thống câu hỏi khá chặt chẽ. Cơ sở của phương pháp này thường là nhằm lấy số đo về lượng nếu xét đến trọng tâm nghiên cứu. Ngược lại, các loại hình phỏng vấn ít chính thức được áp dụng khi nhà nghiên cứu muốn bỏ thêm thời gian để phỏng vấn một lượng người nhỏ hơn trong không khí ít trực tiếp, ít máy móc hơn, mà mối quan tâm cũng rất khác nhau.
[3] quantitative versus qualitative. Vấn đề cũng được nhiều giáo trình nhắc tới, cũng như phần đầu của chương 12 (trang 70) trong cùng giáo trình này, do Arthur Rothwell biên soạn:
Nếu mục tiêu của bạn là biểu diễn kết quả bằng con số thì bạn sẽ lên kế hoạch nghiên cứu định lượng (quantitative). Còn nếu bạn chỉ đơn thuần muốn khám phá xem các yếu tố nào có liên quan trong quá trình tìm hiểu đề tài, không cần biết các yếu tố đó thường xuất hiện như thế nào, thì tức là bạn đang nghiên cứu định tính (qualitative). Khảo sát định tính thường đủ để cung cấp mọi thông tin cần thiết, ví dụ như trong nghiên cứu sự nghiệp thông qua một số ca chọn lọc, hay mô ta xem thay đổi đã được tiến hành như thế nào trong một ngành kinh doanh, thì không cần phải có phân tích số liệu chiếm nhiều thời gian mới đủ tính thuyết phục và hấp dẫn cho công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, thường thì các nghiên cứu định tính được thực hiện như bước loại trừ ban đầu để tiến đến ghi nhận các dữ liệu định lượng. Ví dụ như một bảng câu hỏi định tính có thể dùng để xác định các đề tài quan trọng để lập ra bảng câu hỏi định lượng (quantitative questionnaire). Chắc chắn là đa số các bảng câu hỏi được thiết kế để dùng cho khảo sát định lương, mặc dù chắc chắn cũng có một số được dùng cho phân tích định tính. Nghiên cứu định tính thường dùng các phương pháp thu nhận dữ liệu khác, ví dụ như phỏng vấn và quan sát. Dữ liệu định lượng thường được ghi nhận thông qua các đề nghị lựa chọn trong danh mục có sẵn, dễ phân tích, trong khi bản chất của khảo sát định tính là ngăn dự đoán trước các phạm trù dùng để xếp loại dữ liệu dùng trong phân tích. Do tránh các phức tạo do phân tích xác suất thống kê gây ra mà quá trình phân tích dữ liệu định tính sẽ mất nhiều thời gian hơn rất nhiều.
[4] Được trình bày trong chương trước - chương 21 - của tập giáo trình, cũng chia phỏng vấn survey thành bốn bước tương tự, nhưng mỗi bước lại có những chú ý và mục tiêu khác nhau. Sách có bán trên mạng, http://www.amazon.co.uk/Research-Skills-Students-Transferable-Learning/dp/0749418737

Wednesday, November 12, 2008

Phương pháp hồi ký

Có thể coi là phương pháp thực nghiệm inductive reasoning thuộc nhóm qualitative, văn tiếng Ba Lan cổ và khái niệm chưa được xây dựng vững và cập nhật như thời hiện tại nên dịch lủng củng và có thể sai nhiều. Lười dịch nốt trang cuối cùng nên quăng lên đây, ai cần thì tham khảo cái đã.

Phương pháp hồi ký trong xã hội học
Florian Znaniecki, Lê Hải dịch và chú thích
[1]

[...] Giới sử gia từ lâu và hoàn toàn tận dụng hồi ký và nhật ký cho công việc của mình, cũng nhiều lần bàn luận và phê bình loại hình tư liệu này. Tuy nhiên, đối với sử gia, vai trò của người viết hòi ký ngay từ đầu đã giới hạn trong phạm vi tác giả viết về ký ức cuộc đời mình có thành thật hay không. Tại ví sử gia cần nhất là xác định các sự kiện cá nhân từ quá khứ khách quan một cách chắc chắn, cho nên không chỉ sự dối trá cố ý trong nhật ký, mà ngay cả những lỗi vô ý cũng làm giảm giá trị của toàn bộ văn bản. Vai trò của tác giả nhật ký đối với sử gia đầu tiên hết không phải là đối tượng nghiên cứu, mà là chứng nhân thuật lại sự kiện mà người đó đã nhìn thấy hoặc nghe thấy, và những ghi chép đó sẽ là cơ sở để mô tả lại sự việc đã xảy ra một cách khách quan
[2].

Tuy vậy, cũng cần nhìn nhận là qua ánh sáng của các nghiên cứu mới nhất về tâm lý học (của quá trình xác nhận), chỉ cần dao động rất nhỏ về cá tính, sắc tộc, nghề nghiệp, giai cấp, dân tộc và quan điểm tôn giáo, hay nhu cầu quan sát và ghi nhận hiện tượng một cách chủ quan, thậm chí ngay cả trong trường hợp có ý định khách quan nhất, vẫn khó mà thuật lại hay viết lại một cách đáng tin cậy nhất kết quả quan sát của bản thân (chưa nói đến của người khác), và sau cùng là cũng kết quả đối với những người không được đào tạo về kỹ năng quan sát cũng sẽ không đúng với hiện thực khách quan vốn là kết quả của nhiều mối nối, ngay cả đối với những quan sát thông thường nhất, sẽ được nhân lên nhiều trong ký ức. Vì vậy mà sử gia có thói quen chỉ dựa vào hồi ký sau khi kết hợp với các nguồn khác cũng như các đánh giá nnghiêm khắc về trình độ, mức độ thẳng thắn và lương tâm của người viết; chỉ coi họ hoàn toàn đáng tin cậy từ góc độ nằm ngoài ý thức, tức là không phải những mô tả về sự kiện hay con người, mà là phong tục hay lòng tin của một thời đại và môi trường xung quanh.

Đến thời hiện đại người ta mới bắt đầu chú ý đến hồi ký như nguồn nghiên cứu cho ngành tâm lý học cá nhân. Những bản lý lịch kinh điển như Thánh Augustyn, Rousseau, Amiel, Marie Bashkirtseff, v.v. được sử dụng như tài liệu nghiên cứu cho nhiều nhà tâm lý học, đặc biệt là người Pháp. [...] Ngược với sử gia, nhật ký chẳng qua chỉ là phương tiện truy cập thông tin về môi trường mà cá nhân đó đang sinh hoạt, nhà tâm lý quan tâm đặc biệt tới cảm nhận riêng tư, chủ quan của người viết nhật ký, chỉ chú ý đến khách quan nếu tạo ra một phản ứng tâm lý nhất định. Như vậy nhà tâm lý coi môi trường xã hội như dữ liệu, mà một phần cho phép xác định chính xác cảm giác, tưởng tượng, khái niệm, cảm nhận, cảm xúc, ươcớnguyện, thói quen và chịu đựng của tác giả, v.v. cũng như xác định các mối quan hệ giữa chúng. Với nhà tâm lý thì quan trọng nhất là lời kể của người viết nhật ký về cảm nhận riêng của mình, cho nên đánh giá rất cao hồi ký, nơi có nhiều thành phần tự phân tích, như vừa mô tả. Đến đây có thể thấy thêm một nguồn sai lệch, đó là người viết có ý thức phát biểu sai về bản thân, hay tác giả không hiểu sai về bản thân do không có khả năng nhận thức nội tâm và tự đánh giá. Trong cả hai truờng hợp, trải nghiệm thực tế của người viết nhật ký có thể hoàn toàn khác với những gì đã viết ra. Quá trình điều chỉnh các sai lầm đó đối với nhà tâm lý học, từ một phía khi đối chiếu các nhật ký với nhau thì kết quả khó có thể là lừa dối, còn nhầm lẫn về bản thân cũng dễ dàng được phát hiện, từ phía khác khi so sánh tâm lý một con người với những người khác sẽ cho phép nhận định chúng ta đã biết gì về tâm lý nói chung.

Tổng thể hành động

Tính hữu dụng của hồi ký trong các nghiên cứu xã hội bây giờ mới bắt đầu khởi sắc. Chúng tôi đã cùng giáo sư W.I. Thomas giới thiệu sơ qua trong phần mở đầu cho tập thứ ba của bộ sách về "Nông dân Ba Lan"; mà các nghiên cứu sau đó buộc chúng tôi phải bổ sung và mở rộng các định lý trong đó. Khác với nhà tâm lý, nhà xã hội học xét toàn bộ lý lịch tác giả và chỉ riêng trên nền môi trường xã hội của họ, trong mối quan hê ệhông tách rời với họ; cũng khác với sử gia chỉ xét đến môi trường xã hội của người viết nhật ký, hoàn toàn cách ly và qui chiếu đối với cá tính con người đó. Cá nhân tiêu biểu và môi trường xung quanh anh ta tạo thành một thế thống nhất trong mắt nhà xã hội học. Có nghĩa là, trước hết, cá nhân từ góc độ xã hội học không phải là tổng thể trải nghiệm, có tồn tại riêng, mà chỉ tồn tại trong phạm vi dữ liệu có được, trong chừng mực là đối tượng của nhận thức. Cá nhân có thể coi như là tổng thể các hoạt động mà mỗi hoạt động biểu hiện một chủ thể trong môi trường và cho phép tóm bắt và mô tả chỉ trong mối quan hệ với chủ thể đó, mà hoạt động này tác động hoặc làm ảnh hưởng, nhưng từ góc cạnh ngược lại nhà xã hội học không quan tâm xem cá nhân đó có nhận thức được hành động của mình hay không, hay là có trình bày xem đã suy tính như thế nào, mà chỉ là nó đã xuất hiện hay không và xuất hiện như thế nào trong kết quả, tức là có tác động hay không và tác động như thế nào đối với môi trường xung quanh cá nhân đó. Hai là, nhà xã hội học không quan tâm đến môi trường như là 'chính nó'; nhà xã hội học hoàn toàn không quan tâm đến việc tạo lập một góc nhìn đáng tin cậy và khách quan của một quan sát viên không thiên vị một cách hoàn hảo, mà ngược lại, xét môi trường như chính cá nhân nọ đã giới thiệu, đã sống và hoạt động bên trong đó, để mà nhận thức được môi trường là như thế nào đối với cá nhân đó, các chủ thể mang tính chất gì trong hệ quả nhận thức về bản thân. Bởi vì ảnh hưởng của sự vật và con người lên nhận thức cuộc sống của chúng ta phụ thuộc không chỉ vào việc chúng là như thế nào đối với bản thân và những người khác, mà còn vào việc chúng là như thế nào đối với chúng ta và trong các ứng xử thực tế của chúng ta.

Hệ quả của góc nhìn xã hội học như vừa trình bày, hồi ký chắc chắn chứa nhiều giá trị mang tính chất tài liệu khoa học hơn là đối với nhà tâm lý hay sử gia: tức là những gì đối với họ là nguồn tạo sai lầm thì với nhà xã hội học lại là dữ liệu để nghiên cứu, dù thường là có giới hạn và không đầy đủ. Đặt giả sử là người viết nhật ký lừa dối hoặc nhầm lẫn khi viết lại cảm giác hoặc ước mơ của chính mình, rằng thay vì chính những cảm giác hoặc ước mơ người đó thực sự trải nghiệm trong một khung cảnh nhất định, trong hồi tưởng lại thể hiện cái khác. Với nhà tâm lý thì lời khai của người này bị mất giá trị hoặc thậm chí đối với khoa học còn có hại nếu không thể thuyết phục người đó nhìn nhận sai lầm. Thế nhưng nhà xã hội học thì lại nhìn thấy trong lời khai đó một hành động thực tế của hiện tượng thể hiện rõ ràng về một xu hướng; phát biểu bằng ngôn từ về nhu cầu ít nhất là một phần nhu cầu của xã hội được hiện thực hóa. Chuyện lời khai đúng hay sai không có giá trị, vì lời khai là hiện thực, bản thân đã có giá trị, thông qua những gì người nói ra đã đặt giá trị cho nó. Ví dụ như trong trường hợp người đó xác nhận là cầu chúc tốt lành cho người bạn, hoặc tuyên bố mình là người chồng chung thủy, thì riêng lời nói đó đã có nghĩa là ít nhất tại thời điểm người đó nói ra câu đó, và nhiều khả năng là trong khoảng thời gian mà nội dung lời nói đó liên quan tới, đã tồn tại bên trong người đó một ý tốt lành nhất định đối với người bạn, cùng với một phần ý nguyện muốn trở thành người chồng chung thủy. Trừ trường hợp rất hiếm gặp với đối tượng lừa dối có mục tiêu, mà phần không phù hợp với thực tế rất cần để thực hiện ý đồ, người ta không nói ra những ước nguyện mà họ không hề có; và ngay cả kẻ lừa đảo lúc đó cũng chỉ có thể - nếu bản thân là diễn viên giỏi - dù chỉ thoáng qua và mong muốn thực sự, khát vọng và cảm giác về những gì mình đang đóng giả.

Tổng thể ý thức

Khó khăn chỉ bắt đầu khi cần xác định vai trò mà ước nguyện đó đã giữ trong hoạt động cuộc sống của con người đó trong mối quan hệ với những ước nguyện khác. Người tuyên bố muốn chúc tốt lành cho bạn mình có thể trong những khoảnh khắc khác có thể muốn làm hại người bạn đó, khi mà lòng tốt chỉ là trên lời nói hoặc trong xúc cảm xã hội nhất thời. Người mà có lúc muốn trở thành người chồng chung thủy có thể có những nhu cầu khác trái ngược với ước nguyện này và trong lúc ước muốn trở thành chung thủy chỉ giới hạn trong khu vực tưởng tượng, còn những nhu cầu trái ngược lại xuất hiện ra bên ngoài thông qua các hoạt động vật chất. Cho nên khó khăn của nhà xã hội học phát xuất không phải ở chỗ người viết nhật ký nói gì, mà là người đó giấu diếm điều gì, không phải là không có giá trị, mà từ những tư liệu cá nhân chưa đầy đủ nằm trong hồi ký. Mọi phát biểu đều giá trị như dữ liệu, nhưng không phải tất cả dữ liệu đều chiếu sáng như cần đến vào toàn bộ cá tính nhân vật hoặc một phần nhất định của tổng thể ý thức.

Nói một cách khác, tất cả những lời khai cá nhân được trình bày trong hồi ký chắc chắn trở thành vật liệu cho các phân tích xã hội học, để phân chia các thành phần đơn vị cho cá nhân đại diện trong xã hội; nhưng vật liệu đó có thể không đủ cho khối tổng hợp, trong mối quan hệ thực tế bền vững, tạo thành từ các thành phần đó. Hồi ký càng "đúng" bao nhiêu, tức là tác giả càng có lương tâm và biết cách ghi chép bao nhiêu từ những gì anh ta suy nghĩ, cảm nhận và ước muốn quan trọng nhất trong cuộc đời, thì càng ít một cách caeteris paribus cảm nhận thấy thiếu số lượng vật liệu; nhưng và những lừa dối xét về tâm lý của hồi ký, mà vật liệu chứa đến bão hòa, có thể được sử dụng làm cơ sở cho những tổng hợp quan trọng, vì cho phép kết luận gián tiếp về những ước nguyện và tổng thể mà tác giả không trực tiếp nói ra. Cũng cần phải nói thêm rằng càng thành công theo lối này bao nhiêu trong việc xây dựng ước nguyện, mà tác giả có thể cố tình hoặc vô ý lấp đi, thì càng chiếu sáng thêm vào vật liệu bấy nhiêu, hơn là sự thẳng thắn toàn bộ, khi chính hành động giấu diếm ước muốn thường chứa đựng những vấn đề tâm lý xã hội rất cơ bản.

Mối quan tâm tương tự cũng áp dụng cho mối quan hệ giữa những sự kiện khách quan mà tác giả hồi ký trình bày và những người xung quanh. Chúng ta hãy tưởng tượng ra trường hợp người viết hồi ký cố tình hoặc vô tình làm sai sự kiện, diễn giải môi trường chẳng hạn như là giới thiệu sai về hành động của người khác. Nếu thực chất tự suy luận là con người đó trong cách hành động vừa được mô tả, mà trong mọi trường hợp không có lợi ích gì đối với anh ta, hoặc nhầm lẫn, hay có lý do, khi quan điểm của cá nhân xã hội liên quan tới môi trường phụ thuộc vào chuyện cá nhân đó nhìn nhận xã hội như thế nào. Nếu như người viết hồi ký cố tình dẫn dắt sai lạc, thì chúng ta đã có một trường hợp rất phức tạp. Theo góc nhìn xã hội học thì sự dàn dựng hành động của người thứ hai không có gì là hoàn toàn không thật. Dù sao thì nó cũng tồn tại như một sáng tác của trí tưởng tượng, nhưng lại không phải chỉ là một cuộc chơi tưởng tượng không liên quan gì đến cuộc sống, mà là biểu hiện của một ước nguyện nào đó của tác giả, người muốn đẩy các hành động dàn dựng để chúng được hiểu như là thực sự xảy ra. Chúng ta giả sử như đó là hành động ăn thịt người - có nghĩa là đối tượng khát khao muốn con người nọ có hành động như đã giả thuyết, dù chỉ là làm như vậy để giải thích cho hành động nào đó của mình. Chúng ta cũng giả sử là người đó tuyên bố là người kia công nhận vị thế cao hơn của người đó trong một lãnh vực nào đó - tức là ước muốn là sự công nhận đó xảy ra trên thực tế. Các sự kiện được tạo dựng cũng chính là sự kiện thực tế ở chỗ là đối tượng thông qua nó mà cân bằng với ước nguyện của bản thân. Cho nên nó có quan hệ với môi trường thực tế - mối quan hệ mà đối với sử gia không có giá trị khách quan, mà mang tính chủ quan trong mắt đối tượng, và cũng chính là điều kiện giúp nhà xã hội học hiểu được hành vi của đối tượng. Để hiểu toàn bộ tất nhiên cần phải biết đủ các sự kiện, thực tế khách quan mà trong đó đối tượng đã tạo dựng ra các sự kiện tưởng tượng, bởi vì đối tượng biết các sự kiện đó và một cách nào đó phản ứng lại, cho nên sự thiếu hiểu biết của chúng ta bi che lấp bằng phần có liên quan tới những sự kiện bị giấu trong hành vi của đối tượng.

Nói cách khác, nhà xã hội học thường tìm thấy trong hồi ký những cơ sở mà những nhà khoa học khác coi như là tư liệu không đầy đủ: tất cả tài liệu có được, cho phép tạo ra kết quả khoa học, nhưng trong số tài liệu có được lại chưa đủ để giải quyết nhiều vấn đề. Cách duy nhất để thoát khỏi khu vực đó là tận dụng các dữ liệu có liên quan tới những vấn đề mà qua đó có thể giải quyết. Mỗi một hồi ký, đủ rộng và chi tiết, cho phép đạt đến các kết quả khoa học bền vững và có giá trị, đối với ít nhất một phần nghiên cứu rộng rãi như là cuộc sống xã hội; và chủ yếu là cần phải có càng nhiều hồi ký càng tốt.

Tổng thể các mối quan tâm

Trong số các vấn đề khoa học, mà nhà xã hội học đặt ra cho mình đối với một hồi ký nhất định, đầu tiên là vấn đề tạo thành và phát triển của cá tính tâm lý xã hội của tác giả dưới tác động của môi trường. Cá nhân mang theo mình một tổ hợp các quán tính tự nhiên, mà từng bước theo đà phát triển và mối quan hệ với điều kiện môi trường được mô tả như là những nhu cầu đặc biệt, tạo thành những thích nghi và chấp nhận ít nhiều bền vững, thể hiện một cách khách quan qua thói quen, tổ chức theo chuẩn mực và tư tưởng. Như vậy ở đây chúng ta sẽ có rất nhiều quá trình khác nhau, mà trước hết phải phân tích để phân chia các phần tử và sự kiện cơ bản nhất và quan trọng nhất, rồi sau đó khảo sát sự liên tưởng của chúng, mối quan hệ qua lại, rồi ít nhiều là các tổ hợp có thể giữa chúng. Cá tính cá nhân trong xã hội học không phải là một khối toàn phâầ và không thể phân chia. Nó là một tập hợp của ít nhiều những tổng thể hành động - rất đa dạng và có tổ chức, liên tục bổ sung theo thời gian - và những giá trị có liên quan, mà chúng ta có thể gọi là tổng thể các mối quan tâm. Giữa những tổng thể đó có thể xuất hiện mối quan hệ gần hoặc xa; nhưng thường thì cách biệt một khoảng nhất định. Cách biệt đó thường kết hợp với thực tế là chúng ta thuộc vào các nhóm xã hội khác nhau, mà thường thì không có quan hệ gì với nhau, và trong mỗi nhóm như vậy thì lại có một tổng thể mối quan tâm khác nhau. Và không ít lần chúng ta cố tình giữ sự phân biệt như vậy bên trong cá tính của mình, không cho phép ví dụ như là để cuộc sống gia đình ảnh hưởng đến việc thực hiện các trách nhiệm công việc, hay để cho các khó khăn trong nghề nghiệp ảnh hưởng đến tình cảm cuộc sống, hay để việc hưởng thụ tình cảm ảnh hưởng tới nghiên cứu khoa học, và rồi những khám phá khoa học giằng xé cuộc sống tâm linh tôn giáo của chúng ta. Tương tự như vậy, chúng ta thường không muốn gặp bạn bè chính trị trong đám bạn bè giải trí, và bạn tâm giao trong mối quan hệ hợp tác chính trị hay cuộc sống gia đình. Ngay cả khi chúng ta cố gắng thống nhất con người mình lại, nối kết các tổng thể các mối quan tâm khác nhau vào trong một khu vực chung, thì chũng ta cũng không bao giờ có thể thực hiện hoàn toàn được mục tiêu đó: có những tổng thể thoát ra khỏi mối quan hệ đó hoặc mối quan hệ sẽ quá lỏng lẻo để có thể được coi như là một thể thống nhất.

Trong số các tổng thể đó, một số giữ vai trò xuất chúng trong toàn bộ cuộc sống của một cá nhân, khi quá đa dạng và móc nối, và nhất là cập nhật thường xuyên và lâu bền trong ý thức, còn những tổng thể khác thì lại nghèo nàn về thành phần, tách biệt và thường ít khi và có vai trò không đáng kể. Ví dụ chúng ta có thể so sánh tổng thể gia đình, nghề nghiệp hoặc công việc với những tổng thể các mối quan tâm lỏng lẻo nối kết chúng ta trong những chuyến du ngoạn nước ngoài. Thế nhưng cũng có những tổng thể được tổ chức chặt chẽ, các thành phần cụ thể của chúng hòa hợp và tác động qua lại với nhau, hay trong cơ cấu khác có thể hỗn loạn, hay có những thành phần đối nghịch với nhau, và có những quá trình đi ngược với nhau. Tổ chức của các tổng thể sẽ chủ yếu là ở thể tĩnh, dựa vào điều kiện các giá trị không đổi bền vững và sự lặp lại của các hoạt động tương tự, ví dụ như là mối quan tâm nghề nghiệp của người công nhân hay công chức trung bình, nhưng cũng có thể là ở thể động, đòi hỏi mở rộng khu vực giá trị và phát triển hoạt động ra các vùng mới, ví dụ như là mối quan tâm nghề nghiệp của nghệ sĩ và nhà khoa học, hay là các hoạt động xã hội mang tính yêu nước.

Cá nhân xã hội

Nếu tổng thể các mối quan tâm càng đa dạng và tổ chức tốt bao nhiêu thì tính chất xã hội học của cá nhân xã hội càng quan trọng bấy nhiêu. Khi đó cá nhân con người cùng toàn bộ những tổng thể nổi trội có thể tạo ra một cách khoa học khaí niệm gọi là cá nhân xã hội, tức là những gì được coi là quan trọng đối với người khác và chính cá nhân đó. Sự tái hiện đó sẽ dễ dàng hơn nếu tổ chức tốt hơn và cá nhân chịu nhiều ảnh hưởng của cuộc sống xã hội của mình hơn. Nhà xã hội học đứng trước hai nhiệm vụ: một là nghiên cứu xem tổng thể các mối quan tâm được hình thành như thế nào qua các hoạt động định hướng của chủ thể vớI điều kiện môi trường và sau khi hình thành thì thay đổi như thế nào. Qua đó mà hiểu rằng nghiên cứu cá nhân xã hội chỉ là điểm khởi đầu cho các nghiên cứu so sánh rộng hơn với các cá nhân khác, mà mục tiêu cuối cùng là phát hiện qui luật chung của việc hình thành và thay đổi các cá nhân xã hội.

Hồi ký có cái lợi là một cách vô tình hay hữu ý các tổng thể các mối quan tâm hàng đầu được đưa lên trước. Thực sự thì không phải tất cả đều lộ ra như nhau. Trong mỗi xã hội đều có những thang bậc chung được công nhận về hoạt động và giá trị của con người. Một nhóm thì coi điều này cao hơn, hay tốt đẹp, hữu dụng, hay là bình thường v.v. và khuyến khích tiết lộ, còn nhóm khác thì lại coi đó là thấp hèn, xấu xa, có hạI, không bình thường và không chỉ ngăn điều đó hoạt động, mà còn thường nhìn tiêu cực vào chuyện nhắc đến bằng lời. Cho nên người viết hồi ký bị ảnh hưởng bởi các đánh giá và hoạt động đứng thấp trong thang bậc xã hội (cũng xảy ra dù hiếm trường hợp ngược lại, là tác giả giấu những gì được xã hội đánh giá là cao đẹp, do sợ bị coi là giả tạo). Nếu sự im lặng đó chỉ liên quan đến một giá trị hay hoạt động duy nhất, thì không có nhiều ý nghĩa, chỉ là sự kiện riêng lẻ, và không có gì quan trọng trong việc hiểu con người xã hội của tác giả, nhưng nếu là một phần của một tổng thể rộng hơn thì có thể qua so sánh mà lấp đầy khoảng trống này. Nếu toàn bộ một tổng thể lớn hơn của xã hội bị đặt trong im lặng thì mất mát là vô cùng lớn và không có cách nào đảo ngược.

Cũng may là sự im lặng toàn bộ một tổng thể lớn vẫn chưa ảnh hưởng tới nhận biết khoa học về các tổng thể công khai khác, và ngược với lý thuyết phân tâm học của ngày hôm nay, chìa khóa để hiểu toàn bộ cuộc sống nhận thức của một cá nhân nhìn qua chính các tổng thể đó - bị cấm và im lặng do ảnh hưởng xã hội - trước hết là tổng thể tính dục. Chẳng hạn như ta nhìn thấy mối quan hệ giữa các tổng thể cụ thể trong cuộc sống của một cá nhân có thể rất lỏng lẻo và tổng thể im lặng có thể không có ảnh hưởng gì đáng kể bằng cách này hay cách khác lên tổng thể công khai. Ví dụ như ở nhiều người mối quan tâm tính dục không hề có ý nghĩa đối với mối quan tâm nghề nghiệp hay xã hội. Nếu có tồn tại ảnh hưởng đó thì điều đó không phải là huyền thoại bí mật mà được công khai qua thực nghiệm trong thay đổi về tổng thể cuộc sống, cho phép tổng quát và dẫn nguồn. Ảnh hưởng của tổng thể tính dục lên sự sáng tạo của nghệ sĩ thể hiện ra rõ ràng qua các động cơ tính dục và nộI dung tác phẩm, còn nảh hưởng của điều đó lên công việc chuyên môn của trưởng phòng thì là qua việc chọn lựa nhân viên văn phòng và cư xử đối với nhân viên v.v.

còn đúng gần 1 trang nữa, lười rồi. Ai cần thì nói lý do hợp lý tớ sẽ dịch nốt cho nhé, hi hi

[1] Florian Znaniecki (1882-1958) là người sáng lập ra ngành xã hội học Ba Lan (1920), đồng thời cũng là chủ tịch Hội xã hội học Hoa Kỳ (1953-1954) với nhiều đóng góp mang tính sáng lập cho nhiều nhánh nghiên cứu trong đó có phương pháp thực nghiệm và phép phân tích dữ liệu liên quan đến cuộc sống của cá nhân. Bản gốc của bài dịch này bằng tiếng Ba Lan, được tập sách do Jerzy Szacki chỉ đạo biên tập (1995) sưu tầm và xuất bản (Stolat Socjologii Polskiej, PWN), trích từ Lời nói đầu do Znaniecki viết (1924) cho công trình của W. Berkan, Zyciorys wlasny, Poznan, trang III-XII.
[2] Xin nhớ là tác giả viết bài này từ thập niên 1920s, khi lý thuyết sử vẫn theo lối mòn trước khi bị dao động và thay đổi sau những tác động của thời hậu hiện đại, đặc biệt là phát biểu đòi "kết thúc lịch sử" của Francis Fukuyama (1989). Mời đọc thêm ở http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=14651&rb=0302

Monday, November 10, 2008

Phương pháp dữ liệu

Phương pháp dữ liệu
Robert Brewer, Lê Hải dịch và chú thích

CHÚ Ý !!! Bản nháp... đang tiếp tục chỉnh sửa

Tóm lược: Qualitative research là phương pháp nghiên cứu phổ biến trong ngành xã hội học, thiên về chất lượng và nội dung của đối tượng nghiên cứu, bên cạnh nhánh song song với nó, thiên về số lượng và các phép tính xác suất thống kê - quantitative research. Bài dịch này trích từ quyển giáo trình của GS Robert Brewer
[1], trong chương giới thiệu các phương pháp nghiên cứu khoa học, sau phần trình bày chi tiết về phương pháp số liệu.

Khái niệm 'qualitative' được dùng kèm với rất nhiều phương pháp nghiên cứu mà điểm chung thường là khai thác dữ liệu ở dạng ngôn từ hơn là số liệu. Các phép biểu diễn và suy luận bằng xác suất được thay bằng chủ đề, phân loại và đánh giá chủ quan. Phương pháp dữ liệu (qualitative reseach) ít chú trọng đến việc kiểm tra giả thiết như các phép tính số liệu, mà tập trung hơn vào khám phá và mô tả. Các phạm trù được xây dựng từ dữ liệu (qualitative data) đặc biệt hữu ích trong quá trình tìm hiểu hoạt động của con người và giúp hiểu ý nghĩa mà con người đã gắn cho các sự kiện mà họ đã trải nghiệm và lý giải.

Phương pháp dữ liệu tạo ra nguồn data phong phú và sâu, ngược lại với các loại biến số được sắp đặt và ghi nhận như đã giới thiệu trong phần trước, và dễ được các nhà nghiên cứu ủng hộ trong trường hợp các phương pháp kể cả thí nghiệm lẫn không thí nghiệm khó có thể mô tả chính xác và đủ nhạy về nhiều góc cạnh của đời sống con người, ví dụ như trạng thái khủng hoảng tinh thần khi lên bàn mổ. Điều đó không có nghĩa là phương pháp dữ liệu xoay quanh một số công cụ riêng biệt nào đó. Người ta có thể dùng phỏng vấn, điều tra dư luận, quan sát có tham gia và không tham gia, hay diễn giải các văn bản thuộc vào hàng kinh điển (hermeneutics). Chuyên gia trong ngành dân tộc ký có thể dùng phương tiện phỏng vấn và quan sát. Nói chung có thể coi phương pháp số liệu chuyên ghi nhận tần số, số lượng hay mật độ, trong khi phương pháp dữ liệu chú trọng đến quá trình và ý nghĩa.

Với nhiều nhà nghiên cứu theo phương pháp dữ liệu thì:
i) thực tại là một kết cấu xã hội;
ii) tồn tại mối quan hệ gần gũi giữa người nghiên cứu và đối tượng được nghiên cứu;
iii) công việc điều tra bị ngữ cảnh tác động.

Mặc dù có rất nhiều loại phương pháp nghiên cứu khác nhau đều được xếp vào nhóm qualitative, có thể kể ra một số điểm thông hiểu chung:
i) Đây là phương pháp thuộc nhóm chính thể luận (holistic) - coi tổng thể không chỉ đơn giản là tổng số của các bộ phận. Có nghĩa là để hiểu được đối tượng thì phương pháp nghiên cứu phải cho phép nhà khoa học hiểu toàn bộ và toàn phần hiện tượng, trong khi các phương pháp thí nghiệm cách ly và đo đạc các biến số đã được định nghĩa hẹp, và quá trình tìm hiểu được tiến hành qua kiểm soát và dự đoán.
ii) Lập luận tích hợp (inductive reasoning) bắt đầu từ các quan sát cụ thể giúp xác định qui luật chung từ các ca đã được xác định. Trước khi quan sát thì không có dự trù nào về khả năng có mối quan hệ giữa các dữ liệu, trái ngược với phương pháp thí nghiệm, được thiết kế để dùng giả thiết và sau đó là phép lập luận giản lược (deductive reasoning), vốn đòi hỏi phải đặt giả thiết và biến số rõ ràng trước khi thu thập dữ liệu.
iii) Dữ liệu được thu thập theo đúng tình trạng bình thường, với mục đích khám phá và hiểu hiện tượng trong ngữ cảnh tự nhiên của nó. Tư duy này, một lần nữa, cũng trái ngược với phương pháp thí nghiệm, nơi kiểm soát và sử dụng một lượng nhỏ các biến số cùng số liệu đầu ra.

Đó là nói chung, còn cụ thể phương pháp dữ liệu nào được lựa chọn và phù hợp thường phụ thuộc vào ngữ cảnh và ngành học cụ thể có liên quan và vốn nghiên cứu trong lĩnh vực này. Ví dụ như các ngành nhân học và xã hội học có truyền thống sử dụng nhánh dân tộc ký trong nhóm phương pháp dữ liệu.

Có thể nói việc phân nhánh trong các phương pháp dữ liệu là việc khó làm trong bối cảnh đa dạng như hiện nay, và việc phân loại dễ biến thành phép đơn giản hóa quá mức. Tuy nhiên, thường giới chuyên gia phân loại thành ba nhánh cơ bản:
i) hiện tượng luận
[2] (phenomenology)
ii) phương pháp văn bản kinh điển
[3] (hermeneutics)
iii) dân tộc ký (ethnography)

Các nhánh nghiên cứu này được phân biệt chủ yếu là dựa vào:
a) góc nhìn riêng về bản chất của kiến thức
b) các vấn đề có liên quan đến cá nhân người nghiên cứu
c) mối quan hệ giữa người nghiên cứu và đối tượng được nghiên cứu

Các vấn đề này được giải quyết trong mỗi nhánh của ngành nghiên cứu dữ liệu như sau:

Góc nhìn về bản chất của kiến thức

Hiện tượng luận tập trung vào cái gì được coi là cơ bản của kinh nghiệm và ý thức, hơn là cái gì tạo ra kinh nghiệm.

Phương pháp văn bản kinh điển tập trung đối thoại với văn bản, liên tục quay lại để hiểu rõ hơn và thiết lập sự diễn giải mang tính thông hiểu nhiều hơn.

Dân tộc ký có thể dùng phương pháp mô tả và diễn giải (lập luận tích hợp) hoặc làm việc với lý thuyết (lập luận giản lược).

Các vấn đề có liên quan đến người nghiên cứu

Hiện tượng luận - nhà nghiên cứu tìm cách mô tả trải nghiệm của cá nhân không phụ thuộc vào bất kỳ phạm vi lý thuyết hay xã hội nào. và cố gắng hiểu tầm quan trọng của hoạt động của con người như là một cá nhân trải nghiệm nó.

Phương pháp văn bản - nhà nghiên cứu tìm cách nắm bắt cách hiểu sâu trong khung cảnh của văn bản và ý nghĩa của nó như phát xuất từ ngữ cảnh.

Dân tộc ký - nhà nghiên cứu tìm cách hiểu các nhóm, tổ chức, cộng đồng và xã hội làm thế nào giải nghĩa được các trải nghiệm trong cuộc đời, trong thế giới, nhóm hay xã hội rồi qua đó mà khai phá, diễn giải và giải thích.

Mối quan hệ với đối tượng

Hiện tượng luận - các phỏng vấn thường cho phép nhà nghiên cứu giữ vai trò trong việc xây dựng câu chuyện (narrative).

Phương pháp văn bản - sự tham gia của nhà nghiên cứu trong quá trình giải thích văn bản là rất nhiều, và quá trình đó ăn sâu vào ngữ cảnh của dữ liệu.

Dân tộc ký - nhà nghiên cứu không có sẵn suy diễn mà giữ khoảng cách cần thiết, nhưng cũng hoàn toàn tham gia quá trình hoạt động của đối tượng.

Hiện tượng luận

Phương pháp này tập trung vào kinh nghiệm của cá nhân, và cố gắng thể hiện cái kinh nghiệm đó một cách chuẩn xác nhất. Vì vậy cần phải có không chỉ mô tả mà còn là lột tả ý nghĩa của những gì con người trải nghiệm, ở một mức độ vượt khỏi các phương pháp nghiên cứu khác. Hơn cả mô tả các trải nghiệm đó, hiện tượng luận còn tìm cách khám phá những kết cấu nhận thức nằm bên dưới nhằm mục tiêu đi đến bản chất của ý thức. Phỏng vấn được dùng để thu thập dữ liệu, thường là qua dạng đối thoại mở rộng, và cần kỹ năng lắng nghe (khó hơn nhiều người hằng tưởng), thông cảm với người trả lời phỏng vấn và quan sát, ví dụ như là ngôn ngữ cử chỉ trong quá trình phỏng vấn. Người nghiên cứu ghi lại tất cả những đề tài xuất hiện trong khi phỏng vấn nhưng không phân tích hay đặt kết cấu và ý nghĩa cho những gì quan sát được. Chỉ sau khi quá trình quan sát được ghi nhận đúng lệ thì mới tiến hành phân tích để giản lược và tái dựng cấu trúc dữ liệu.

Có hai hướng thường được nhận dạng trong phương pháp hiện tượng luận.
a) Hướng tiếp cận thực nghiệm (empirical), tức là nhà nghiên cứu dùng các câu hỏi mở và trò chuyện với đối tượng, thu thập các mô tả mang tính cá nhân về một trải nghiệm cụ thể. Kết cấu tự nhiên của trải nghiệm sẽ được mô tả qua thể hiện và diễn giải thông qua ghi nhận của người tham gia, mang tính phân tích. Trong số các tên tuổi gắn liền với phương pháp này có Kaam (1966) và Giorgi (1985)
[4].
b) Hướng tiếp cận tối ưu (heuristic), khi nhà nghiên cứu tìm cách khám phá câu hỏi nghiên cứu vừa mang giá trị xã hội lại vừa có ý nghĩa cho bản thân nhằm giải thích mối quan hệ giữa bản thân và xã hội. Moustakas (1994) nghiên cứu sự cô đơn bằng phương pháp này và phân biệt hướng tiếp cận tối ưu với thực nghiệm bằng hai cách:
i) vì nó giữ quan hệ gần gũi hơn với chuyện kể của các cá nhân trong quá trình nghiên cứu
ii) nguồn dữ liệu rộng hơn là các mô tả do nhưng người tham gia kể lại, có thể bao gồm cả nhật ký cá nhân, sổ ghi chép, tác phẩm nghệ thuật, và các câu chuyện hư cấư do người tham gia sáng tác và vượt khỏi tầm nhìn hay hoàn cảnh của một cá nhân cụ thể.

Phương pháp văn bản kinh điển

Phương pháp này được sử dụng để giúp tăng độ thông hiểu đối với ngữ cảnh tìm thấy và tạo nghĩa cho dữ liệu. Quá trình này bao gồm diễn giải văn bản hoặc ghi lại ý nghĩa, vốn là phương pháp được các nhà khoa học dùng để phân tích văn bản để tìm ý nghĩa cho các văn bản tối nghĩa trong Kinh Thánh. Sau đó giới khoa học gia ngành xã hội học ứng dụng phương pháp này cho các văn bản phi tôn giáo.

Hai quan điểm trái ngược nhau thường xuất hiện trong các phương pháp văn bản kinh điển.
i) Văn bản chứa đựng nội dung tách rời và độc lập đối với nhà nghiên cứu - lối tiếp cận 'khách quan'.
ii) Mọi sự hiểu biết về cơ bản bắt nguồn từ mối liên hệ tích cực thông qua phiên dịch dữ liệu - lối tiếp cận 'xây dựng'. Theo đó, sự thông hiểu được xây dựng nhờ tập trung các góc nhìn khác nhau của người dịch và dữ liệu hay sự kiện. Lập luận ở đây là mỗi người trong chúng ta đều có riêng một góc nhìn tích lũy từ kinh nghiệm cuộc sống và các mong đợi dựa trên các kinh nghiệm đó, nhưng chúng bị giới hạn cũng giống như khả năng diễn đạt của chúng ta, cho nên sự tương tác giữa văn bản và người đọc giúp chúng ta nâng cấp sự thông hiểu.

Khó khăn trong lối tiếp cận thứ hai là văn bản được phân tích trong ngữ cảnh lịch sử, xã hội hoặc văn hóa nhưng lại dùng để rút ra bài học quan trọng cho các câu hỏi hiện tại. Khi đó cần phải hiểu nghĩa của dữ liệu theo cách mà độc giả hiện tại có thể hiểu được, mà vẫn giữ nguyên nghĩa đối với ngữ cảnh gốc của nó. Đây là yêu cầu rất khó giải quyết thỏa đáng nhưng có thể dùng để đặt một số câu hỏi ngihên cứu thú vị.

Đến đây cũng cần phải làm rõ sự khác biệt giữa hai phương pháp văn bản kinh điển và hiện tượng luận. Với cái trước, nhà nghiên cứu được cung cấp dữ liệu và yêu cầu nghiên cứu là giải nghĩa thông qua sử dụng kỹ thuật văn bản kinh điển, trong khi với cái sau nhà nghiên cứu tham gia quá trình tạo ra dữ liệu bằng cách phỏng vấn và ký âm các câu chuyện và đàm thoại được ghi âm.

Phương pháp văn bản kinh điển thường là một quá trình nghiên cứu phức tạp và khó khăn, đòi hỏi:
i) kết nối nguồn với nguồn dữ liệu;
ii) thiết lập đối thoại với dữ liệu;
iii) tìm cách xác định xem dữ liệu có ý nghĩa gì đối với nguồn hay người tạo ra nó;
iv) hòa trộn ý nghĩa cấu tạo thành từ (iii) với ý nghĩa do nhà nghiên cứu đặt bên trên nó.

Xét trong bối cảnh các nhà khoa học trong Hiệp hội xã hội học luôn tìm kiếm kiến thức trong ngữ cảnh của hiện tượng, phạm trù và cảm giác, phương pháp văn bản kinh điển lẽ ra đã phải rất hữu dụng. Tuy nhiên, trong vai trò phương pháp nghiên cứu chính thức thì nó lại không được coi là bình thường và không được đề cử nhiều lắm từ các sách giáo khoa về phương pháp nghiên cứu, dù cũng có một số người bảo trợ như Taylor (1990). Các ví dụ nổi bật trong ứng dụng phương pháp này có thể đơn cử như Jung (1938) và Packer (1985)
[5].

Packer đã rất thành công trong việc ứng dụng phương pháp văn bản kinh điển vào nghiên cứu bất kỳ hoạt động nào của con ngưới, với lập luận cho rằng mọi hành động trong ngữ cảnh có thể coi như là 'văn bản' trong cấu trúc riêng. Nếu tư duy nhìn nhận qua lập luận hay trên thực tiễn tạo ra bản vẽ hay sơ đồ khu vực thì phương pháp văn bản kinh điển là miêu tả của chính người đang sống trong đó, sống cuộc sống hàng ngày, có kiến thức địa lý từ chính kinh nghiệm sống hàng ngày ở đó. Đây chính là khác biệt giữa một sự tưởng tượng được chính thức tạo ra và góc nhìn có thể phiến diện và định kiến nhưng lại rất cá nhân.

Phương pháp văn bản kinh điển có thể nghiên cứu nhiều loại tài liệu khác nhau cùng liên quan tới đối tượng nghiên cứu, bao gồm báo chí và các thông cáo báo chí, các loại truyền thông, báo cáo từ hội thảo và nhóm thảo luận, báo cáo đại học và các loại khác, cả chính thức và bán chính thức, băng ghi âm thanh và video. Một số loại tài liệu kiểu này có thể thu thập qua mạng Internet.

Dân tộc ký

Phương pháp này bắt nguồn từ các nghiên cứu của ngành nhân học và tập trung vào một số khu vực của cuộc sống của một nhóm đặc biệt khi nói đến hành vi, thói quen, công việc và vận dụng liên quan đến các khía cạnh đặc biệt đó. Về cơ bản, nó tập trung vào lời kể và mô tả chi tiết của người cấp tin.

Có rất nhiều phương pháp dân tộc ký khác nhau, từ phát triển tích hợp để xây dựng lý thuyết trên cơ sở các mô tả và diễn giải, cho đến phép giản lược khung lý thuyết để xây dựng nghiên cứu. Nhiệm vụ khó khăn trong phương pháp nghiên cứu dân tộc ký là làm sao kết hợp giữa thiết lập và quản lý mức độ tham gia (immersion) ngữ cảnh trong khi vẫn giữ nguyên mức độ cách ly cần thiết đối với tâm điểm nghiên cứu. Phương pháp này được các chuyên gia nhân học hàng đầu như Mead (1928) và Malinowsk (1922) áp dụng. Goffman (1961) tiếp tục phát triển thành phương pháp nghiên cứu chủ yếu trong ngành sức khỏe tâm lý.

Dữ liệu cho nghiên cứu lấy từ thực địa như quan sát và tương tác, các phỏng vấn tiếp theo được ghi chép chính xác, cũng như các ghi chép từ nghiên cứu tài liệu lưu trữ và vật thể văn hóa. Dữ liệu sẽ rất nhiều và khó xử lý, cho nên sẽ được giản lược nhờ áp dụng phương pháp so sánh liên tục. Công việc đó đòi hỏi các quá trình sau:

i) mã hóa dữ liệu một cách có hệ thống vào đề tài và nhóm loại;
ii) xác định và tinh chế các nhóm loại mới xuất hiện.
iii) nối kết các nhóm loại một cách logic
iv) cân nhắc khả năng xây dựng lý thuyết trên cơ sở mối quan hệ giữa các nhóm loại;
v) đặt ra qui luật từ các tính chất lý thuyết của các nhóm loại.
Phương pháp này được Glaser và Strauss (1967) gọi là grounded theory, vì lý thuyết được xây dựng từ dữ liệu thực tiễn, chứ không phải đem từ ngoài vào.

-------------------------------------------
[1] Là GS của Đại học Mở, Anh quốc, email liên lạc ở địa chỉ r.brewer@studymates.co.uk. Tập sách được NXB Studymates ấn bản năm 2007 trong loạt giáo trình cho sinh viên cao học: Your PhD Thesis - How to plan, draft, revise and edit your thesis.
[2] Phenomenology còn là trường phái triết học từng được triết gia Trần Đức Thảo diễn dịch sang tiếng Việt nhưng trong phạm vi bài viết này được nhắc đến như một phương pháp nghiên cứu tập trung vào hiện tượng xã hội, sẽ được giải thích thêm trong phần tiếp theo của bài viết.
[3] Mặc dù phương pháp này được xây dựng từ các phương pháp giải nghĩa truyền thống đối với các bản kinh tôn giáo (Hermes là tên của vị thánh đã giải nghĩa lời của Chúa trời, còn nguyên nghĩa chữ hermeneuo trong tiếng Hi Lạp là giải nghĩa), khái niệm văn bản cũng được mở rộng ra khỏi dạng text vật chất, có thể dùng cho ví dụ như trải nghiệm của cá nhân. Hermeneutics cũng còn là một trường phái triết học đương đại như cách hiểu của triết gia Đức Hans-Georg Gadamer (1900-2002).
[4] Giorgi, A (1985), Phenomenology and Psychological Research Papers. New York: Harper and Row
[5] Taylor D.S. (1990) Making the Most of Your Matrices: Hermeneutics, Statistics, and the Repertory Grid, International Journal for Personal Construct Psychology, 3, 105-19.
Jung C.G. (1938) Psychology and Religion, Yale: Yale University Press.